6 Câu hỏi - trả lời ôn tập thi phần I.2
Câu 1: Nguồn
gốc hình thành tư tương Hồ Chí Minh. Liên hệ trách nhiệm bản thân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại,
người sáng lập, giáo dục, rèn luyện Đảng ta, anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hoá thế giới. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng đầy nhiệt huyết,
gian khổ, hết lòng vì nước, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng và
nhân ta một di sản tinh thần hết sức sâu sắc, cao cả. 85 năm qua, tư tưởng của
Người luôn luôn soi đường, chỉ lối cho cách mạng Việt Nam, cho cuộc đấu tranh
của nhân dân ta giành thắng lợi. Vì vậy, Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định
cùng với Chủ nghĩa Mác -Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành bắt nguồn từ 04 nguồn gốc:
*Thứ nhất, là những giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam, được thể hiện qua 03 giá trị căn bản:
- Một là, chủ nghĩa
yêu nước và ý chí bất khuất, tự lực tự cường trong
đấu tranh dựng nước và giữ nước. …
- Hai là, tinh thần cộng đồng, đoàn kết, ý thức dân chủ xuất hiện và
được nuôi dưỡng trong quá trình dựng nước, giữ nước và trở thành truyền thống
tốt đẹp của dân tộc. …
- Ba là, dũng cảm,
cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động sản xuất, chiến đấu đồng thời dân tộc
Việt Nam luôn rộng mở đón nhận những giá trị văn minh của nhân loại để bảo tồn
dân tộc và phát triển đất nước.
*Thứ hai, là tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại:
Phương Đông và phương Tây
- Tư tưởng
văn hóa phương Đông.
+ Phật giáo: Phật giáo là một trong những tôn giáo du nhập vào Việt Nam
khá sớm. Những mặt tích cực của Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong
tư duy, hành động, cách ứng xử của con người Việt Nam. Phật giáo có tư tưởng vị
tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thương thân; xây dựng
nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện; đề cao tinh
thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp.
Phật giáo Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động, để
lại dấu ấn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Nho giáo: Nho giáo
Trung Hoa vào Việt Nam do nhu cầu thống trị, nhưng trong quá trình đó đã được
Việt hóa thành Nho giáo Việt Nam thể hiện những giá trị về lòng yêu nước,
thương dân, nhân văn, dung hòa con người cá nhân với cộng đồng, coi trọng lợi
ích cộng đồng trên lợi ích cá nhân, gắn lợi ích của cá nhân với lợi ích dân tộc.
Nho giáo Việt Nam lấy
yêu nước – nhân văn Việt Nam làm đạo lý làm người.
+ Hồ Chí
Minh cũng nghiên cứu và thấu hiểu tư tưởng của các nhà tư
tưởng phương Đông như Lão tử, Mặc tử, Quản tử... Khi đã trở thành
người mácxít, Hồ Chí Minh vẫn tìm hiểu thêm về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung
Sơn. Hồ Chí Minh đã biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn
hóa phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của Người.
- Tư tưởng
và văn hóa phương Tây.
+ Khi học ở Huế những tư tưởng tiến bộ của cách mạng Pháp về “tự do,
bình đẳng, bác ái” đã ảnh hưởng mạnh đến HCM và là một trong những yếu tố tác động
tới hướng đi tìm đường cứu nước của Người.
+ Ba mươi năm sống, lao động học tập và hoạt động trong môi trường văn
hóa phương Tây, HCM đã có điều kiện để tìm hiểu, nghiên cứu và trực tiếp trải
nghiệm qua các hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội ở đây. Người đã trực tiếp
tìm hiểu tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng (Vônte, Rútxô, Môngtéxkiơ, …)
qua các tác phẩm của họ.
+ Người đã tới Pháp, Anh, Mỹ và trực tiếp khảo sát mọi mặt tại nơi khổi
nguồn của ba cuộc cách mạng tư sản điển hình trên thế giới. Tư tưởng cách mạng
tiến bộ của các cuộc cách mạng này đã tác động mạnh mẽ tới HCM.
*Thứ ba, Tư tưởng Hồ chí Minh có nguồn gốc từ Chủ nghĩa
Mác- LêNin
Tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin,
HCM đã từ một người yêu nước trở thành người cộng sản, trở thành người tham gia
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Với thế giới quan và phương
pháp luận mácxít, HCM đã có sự chuyển biến về chất trong tư tưởng cách mạng của
mình để có thể hấp thụ và chuyển hóa được những giá trị tích cực và tiến bộ
trong truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại,
giúp Người tổng kết thực tiễn, đúc rút lý luận và hình thành nên một hệ thống
quan điểm cơ bản về cách mạng Việt Nam, hình thành nên tư tưởng HCM về giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
*Thứ tư, trí
tuệ và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh
Tại sao có nhiều người đi tìm đường cứu nước nhưng chỉ
có HCM mới nhận thức được con đường mới, phù hợp với yêu cầu của dân tộc và xu
thế phát triển của thời đại?
Đó là do tài năng trí tuệ của
Người mà biểu hiện trước hết là ở sự kiên trì học tập, tiếp thu vốn tri thức
phong phú của dân tộc và nhân loại, là tư duy độc lập, tự chủ trong tiếp thu,
phê phán, chọn lọc các giá trị văn hóa, trí tuệ của thời đại trên cơ sở đó sáng
tạo và phát triển thành giá trị tư tưởng mới vì mục tiêu độc lập và giải phóng
triệt để con người.
Đó là do năng lực hoạt động
thực tiễn phong phú giúp Người phân tích và rút ra được nhiều kết luận chính
xác từ thực tiễn lịch sử của phong trào cách mạng thế giới và trong nước.
Tóm tại tư tưởng HCM có nguồn
cội và được hình thành từ các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh
hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh cao là Chủ nghĩa Mác-Lênin thông qua hoạt
động trí tuệ và thực tiễn của Người.
Bản thân tôi là….. qua việc nghiên cứu, học
tập về nguồn gốc hình thành tư tưởng HCM tôi nhận thấy bản thân mình cần phải:
Trước hết, là một người cán bộ, tôi phải
tu dưỡng, rèn luyện phong cách tư duy. Nghĩa là mỗi cán bộ, đảng viên phải có
tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo. Cán bộ phải là người có bản lĩnh chính trị
vững vàng; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; phải có chính kiến riêng,
không theo kiểu nịnh nọt, a dua hoặc “gió chiều nào theo chiều nấy”.
Rèn luyện tác phong quần chúng, dân chủ và
khoa học trong công việc. Người đã căn dặn mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi
ích nhân dân lên trên hết và “việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ mấy cũng hết sức
làm; việc gì có hại cho nhân, dù nhỏ mấy cũng phải tránh”. Muốn tạo sự liên hệ
chặt chẽ với quần chúng nhân dân, cán bộ phải chịu khó đi cơ sở để nắm vững dân
tình, dân tâm, dân ý; phải lắng nghe ý kiến các tầng lớp nhân dân; giải thích
những vấn đề dân chưa hiểu; có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước dân
và hoan nghênh nhân dân phê bình mình. Người cán bộ không nên kiêu ngạo mà phải
thấu hiểu và luôn phải sẵn sàng học hỏi nhân dân.
Khả năng tổ chức thực hiện đường lối của
người cán bộ được quyết định bởi cách làm việc theo quan điểm quần chúng, chứ
không phải làm việc theo cách quan liêu. Đây là bài học lớn từ tấm gương của
Lênin mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Với phương pháp khéo léo của mình,
Lênin đã lay động được quần chúng nhân dân chưa giác ngộ và lạc hậu nhất trong
các nước thuộc địa.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, người cán bộ phải
có tác phong dân chủ. Người cho rằng, thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn
năng có thể giải quyết mọi khó khăn. Người cán bộ lãnh đạo phải động viên, khuyến
khích “khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”, tức là phải làm cho cấp
dưới không sợ nói sự thật và cấp trên không sợ nghe sự thật.
Người cán bộ phải đi sâu, đi sát cơ sở; nắm
người nắm việc, nắm tình hình cụ thể; nắm bắt và xử lý thông tin phải khoa học.
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người viết: “Nếu mỗi cán bộ, đảng viên làm
việc đúng hơn, khéo hơn, thì thành tích của Đảng còn to tát hơn nữa”.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
chú ý đến rèn luyện phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử và phong cách sinh
hoạt. Trước khi nói, viết vấn đề gì, Người đều chú ý xác định rõ chủ đề, đối tượng,
mục đích của việc nói và viết; trong nói và viết luôn phải phù hợp với đối tượng
và rõ chủ đề. Người căn dặn cán bộ, khi nói và viết phải chân thực, không ẩu,
không được bịa ra; nói ngắn gọn, có đầu có đuôi và nội dung nói phải thiết thực,
thấm thía; cách diễn đạt phải trong sáng, giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm.
Trong ứng xử với nhân dân, người cán bộ phải
có thái độ ân cần, niềm nở, vừa thân ái vừa nhiệt tình, thể hiện tấm lòng độ lượng,
khoan dung và phải có thái độ khiêm nhường, phải rất tế nhị.
Trong sinh hoạt hàng ngày, mỗi cán bộ, đảng
viên phải đặt cho mình một kỷ luật chặt chẽ, giữ nếp trật tự, ngăn nắp, gọn
gàng…
Tuy nhiên, trong tự phê bình và phê bình,
tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm vẫn còn khá phổ biến; một số cán bộ,
đảng viên chưa tự giác nhìn nhận đúng mức khuyết điểm và trách nhiệm của mình
trước những hạn chế, khuyết điểm trong công việc được giao; tình trạng tham
nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp,
gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng và
Nhà nước; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một
bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức
tạp hơn…
Tất cả các quan điểm chỉ đạo của Đảng hiện
nay cho thấy tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh nói
chung và phong cách Hồ Chí Minh vào công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng. Trước những
yêu cầu thực tiễn giai đoạn cách mạng hiện nay, đòi hỏi mỗi cán bộ phải nghiêm
túc học tập và rèn luyện theo phong cách Hồ Chí Minh, góp phần nâng cao đạo đức
cách mạng cũng như hoàn thiện những phẩm chất cần thiết của người cán bộ, đặc
biệt phải sâu sát quần chúng; phải nêu gương; lời nói phải đi đôi với việc làm;
làm việc gì cũng có mục đích rõ ràng, có chương trình, kế hoạch cụ thể và biết
tổ chức thực hiện có hiệu quả nhất… để tạo lòng tin cho nhân dân.
Tóm lại, Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản tinh
thần vô cùng to lớn và sâu sắc không chỉ góp phần to lớn và quyết định vào
thắng lợi của dân tộc ta trong những năm qua mà còn có ý nghĩa chỉ đạo lâu dài
cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta. Vì vậy, chúng ta phải luôn
luôn đấu tranh để bảo vệ, vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhất là trong sự nghiệp đổi mới, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công băng và văn minh.
Câu
2:Tư tưởng HCM về độc
lập dân tộc? Liên hệ?
Tư tưởng HCM là hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong hệ
thống quan điểm đó, quan điểm của HCM về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là
mục tiêu hàng đầu có nội dung toàn diện, sâu sắc và có giá trị to lớn.
1.
Quan niệm của HCM về độc lập dân tộc:
a. Độc lập dân tộc
phải là một nền độc lập thực sự:
Một dân tộc độc lập thực sự, tức là các
quyền dân tộc cơ bản phải được đảm bảo; dân tộc đó phải có quyền tự quyết trên
tất cả các lĩnh vực đối nội và đối ngoại.
b. Độc lập dân tộc
là quyền thiêng liêng của dân tộc;
Mỗi dân tộc trên thế giới đều có quyền được
hưởng độc lập, tự do. Mỗi công dân của một nước độc lập có trách nhiệm và nghĩa
vụ bảo vệ quyền độc lập thiêng liêng của dân tộc.
c. Độc lập dân tộc
phải gắn liền với hòa bình:
Chỉ có độc lập dân tộc thật sự mới có một
nền hòa bình chân chính và chỉ có hòa bình chân chính, mới có độc lập dân tộc
hoàn toàn. Không thể có độc lập dân tộc thực sự, khi đất nước còn có sự lệ thuộc
hoặc có sự hiện diện của quân đội nước ngoài.
d. Độc lập dân tộc
phải đi tới tự do hạnh phúc của nhân dân;
Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Theo Người, dân chỉ biết rõ
giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. HCM đòi hỏi Chính phủ
cách mạng phải đi đến làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành. Phải
thực hiện thành công bốn điều đó, để dân nước ta xứng đáng với tự do, độc lập
và giúp sức cho tự do, độc lập.
*Vận
dụng tư tưởng HCM về độc lập dân tộc
Từ 4 nội
dung dung trên, căn cứ vào yêu câu của đề thi liên hệ từng nội dung.
Kết luận
Câu
3: Mục tiêu của CNXH theo quan niệm của Hồ Chí Minh:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết
quả của sự vận động và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ
thể của nước ta, thừa kế và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Nội
dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêuchủ nghĩa xã hội
bao gồm:
Mục
tiêu của CNXH chính là đặc trưng của CNXH sau khi được nhận thức để đạt tới
trong quá trình xây dựng và phát triển CNXH.
Hồ
Chí Minh khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm cả chính trị, kinh tế,
văn hóa - xã hội và xây dựng con người. Cụ thể:
*
Về chế độ chính trị: Xây dựng chế độ
do nhân dân là chủ và làm chủ. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu
bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN.
*
Về kinh tế: Xây dựng nền kinh tế
XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến,
được tạo lập trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Nhưng ở thời kỳ quá
độ vẫn tồn tại nhiều hình thức sở hữu. Từ nông nghiệp đi lên CNXH thì tất yếu
phải thực hiện công nghiệp hóa.
*
Về văn hóa: Phát triển văn hóa là mục
tiêu quan trọng của CNXH, thậm chí cần đi trước để dọn đường cho cách mạng công
nghiệp. Bởi vậy, cán bộ phải có văn hóa làm gốc, công nhận và nông dân phải biết
văn hóa.
*
Về quan hệ XH: Xây dựng cho được mối
quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Hồ Chí Minh căn dặn “Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người XHCN”. Thực hiện công bằng xã hội
là tạo ra động lực cho CNXH. Và để tạo động lực cho CNXH, còn cần phải sử dụng
vai trò điều chỉnh của các nhân tố về chính trị, văn hóa, đạo đức, pháp luật.
*. Liên hệ bản thân:
Dựa vào 4 nội dung trên để liên hệ theo yêu cầu đề:
- Về chính trị…
- về kinh tế….
- Về văn hóa….
- Về quan hệ xã hội…..
Tóm lại, hiện nay, chúng ta
đang đứng trước những vận hội mới đồng thời cũng có những thách thức mới. Những
thờicơ và thách thức đó tác động đến xây dựng CNXH. Để tiến lên chúng ta chỉ có
con đường là phải kiên trì, vững vàng, quán triệt và thực hiện mục tiêu CNXH của
HCM, đồng thời chúng ta cũng phải đổi mới, phát triển những nội dung, phương
pháp cho phù hợp với sự vận động, biến đổi của đời sống KT - XH trong nước và
thế giới. Kế thừa, phát triển quan điểm của HCM trong sự nghiệp đổi mới đòi hỏi
phải có sự nghiên cứu sâu sắc toàn diện tất cả các vấn đề chính trị, KT, XH và
quốc tế. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước cần luôn
luôn quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng HCM về mục tiêu CNXH.
Câu 4: Nhà nước vì dân
theo quan điểm của Hồ Chí Minh
Nhà nước vì dân là một trong những quan điểm xuyên suốt quá
trình xây dựng đất nước, đây là quan điểm có giá trị nhân văn sâu sắc mà chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn quan tâm thực hiện. Nhà nước
vì dân theo quan điểm của Hồ Chí Minh có một số đặc điểm như sau:
- Nhà nước phục vụ nhân dân, đem lại lợi
ích cho dân. Mọi hoạt động của chính quyền phải nhằm mục tiêu mang lại quyền lợi
cho nhân dân và lấy con người là mục tiêu phấn đấu lâu dài như Hồ Chủ tịch từng
nêu rõ trách nhiệm của nhà nước trước hết là nhằm thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu
nhất của nhân dân.
- Nhà nước quan tâm, chăm lo cho đời sống
của nhân dân bằng cách hướng dẫn nhân dân tự chăm lo thỏa mãn các nhu cầu, lợi
ích của mình, chứ không phải làm thay dân.
- Nhà nước tồn tại và hoạt động vì quyền
lợi của toàn thể nhân dân lao động, chứ không vì quyền lợi của một nhóm người
hay một tập đoàn xã hội nào đó như Nhà nước ở các chế độ xã hội khác.
- Nhà nước đặt lợi ích của dân lên trên
hết, nhà nước đó phải có đường lối, chủ trương và các chính sách đều phục vụ lợi
ích của dân. Công việc gì của nhà nước mà có lợi cho dân là phải làm ngay, việc
có hại thì phải tránh.
- Bên cạnh đem lại lợi ích cho dân, chăm
lo mọi mặt đời sống nhản dân, nhà nước phải biết kết hợp, điều chỉnh các loại lợi
ích khác nhau giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, các bộ phận dân cư để luôn được
mọi người dân ủng hộ, xây dựng. Và điều đặc biệt quan trọng là để phục vụ tốt
nhân dân, thì bộ máy nhà nước phải thật sự liêm khiết, trong sạch, tránh quan
liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, V.V..
Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của
nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi
dường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phải phản ánh lợi
ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm
tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước.
Qua nghiên cứu và học tập tư tưởng HCM, thời gian qua bản tôi nhận
thấy tại địa phương tôi đang sống đã thực hiện nhà nước vì dân đạt được những kết
quả như sau:
- Đối với giáo dục, UBND phường rất chăm lo đến các em học sinh
trong thời gian chuẩn bị tựu trường như: chỉ đạo khóm rà soát danh sách và phát
thông báo đến hộ gia đình có con em đến tuổi vào lớp 1, các em học sinh có hoàn
cảnh khó khăn thì địa phương chủ động hỗ trợ tập, sách do phường vận động.
- Thực hiện tốt các chế độ trợ cấp ưu đãi, trợ cấp xã hội thường
xuyên và đột xuất cho đối tượng chính sách người có công, người cao tuổi, những
người có nhiều khó khăn và trẻ em dưới 6 tuổi; Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” đã tiếp
nhận ......triệu đồng để chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho các gia
đình chính sách, thực hiện hỗ trợ nhà ở cho người có công cách mạng theo Nghị định
22 của Chính phủ, hằng năm cấp thẻ bảo hiểm y tế cho các đối tượng chính sách,
người nghèo, người cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội và trẻ em dưới 6 tuổi.
Công tác phòng chống tệ nạn xã hội và giải quyết tình trạng người lang thang,
xin ăn trên địa bàn phường có nhiều chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được lại có những hạn chế như
sau:
- Về phòng chống dịch bệnh: một số hộ dân chưa có ý thức và từ
chối phun hóa chất, không hợp tác với cán bộ y tế hoặc vắng nhà liên tục, do vậy
việc khống chế và dặp tắt các ổ dịch bệnh gặp nhiều khó khăn. Người dân không hợp
tác để phòng chống dịch, như: khi đi tuyên truyền, phun thuốc muỗi một số hộ
gia đình, người dân không mở cửa cho cán bộ y tế vào nhà kiểm tra VSMT diệt bọ
gậy hoặc phun hoá chất diệt muỗi; không khai báo cho cán bộ y tế địa phương khi
bị bệnh; không chủ động và thực hiện thường xuyên việc diệt bọ gậy trong và
xung quanh nhà mình; chỉ cho phun hóa chất diệt muỗi ở tầng 1 mà không cho phun
ở tầng 2 vì nghĩ tầng cao không có muỗi... Bên cạnh đó, kiến thức về bệnh của
người dân vẫn còn hạn chế, ví dụ: Nghĩ nhà sạch là sẽ không có muỗi; nghĩ việc
phòng bệnh chủ yếu là phun hóa chất diệt muỗi trưởng thành, coi nhẹ việc VSMT,
diệt bọ gậy trong và xung quanh nhà mình.
- Về giáo dục: Thời điểm hiện nay, vẫn còn một số phụ huynh có
quan điểm lựa chọn trường cho con vì các
loại hình trường lớp phát triển chưa tương xứng với yêu cầu xây dựng xã hội học
tập; chất lượng giáo dục chưa đồng đều giữa khu vực nội ô và vùng ven.
- Công tác giảm nghèo tại địa phương chưa thực hiện tốt vì chưa
có chính sách cụ thể, chưa có giải pháp mạnh khuyến khích người dân vươn lên
thoát nghèo.
Các giải pháp để địa phương thực hiện tốt hơn:
Liên hệ bám sát vào những nội dung trên, lấy ví dụ chứng
minh về nhà nước vì dân.
- Tích cực công tác tuyên truyền và chủ động phối hợp đồng bộ
trong phòng chống các loại dịch bệnh nguy hiểm trên người, khống chế,
dập tắt kịp thời, hiệu quả, kiểm soát tốt không để dịch bệnh lây lan
diện rộng, đặc biệt là các dịch bệnh mới phát sinh. Thực hiện hiệu
quả các chương trình y tế mục tiêu quốc gia; thực hiện thí điểm mô hình
bác sĩ gia đình.
- Nâng cao chất lượng dạy nghề qua việc đẩy mạnh xã hội hóa công
tác dạy nghề gắn với giải quyết việc làm cho người lao động, huy động các cơ sở
đào tạo nghề, các doanh nghiệp tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn.
- Tăng cường các hoạt động tuyên truyền sâu rộng về mục tiêu giảm
nghèo đến các tầng lớp dân cư và người nghèo, cận nghèo bằng nhiều hình thức. Đồng
thời, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tham gia thực hiện có hiệu quả của
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo các cấp, nâng cao nhận thức và khơi dậy
ý chí chủ động vươn lên của người nghèo, tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả các
chính sách và nguồn lực hỗ trợ của nhà nước, của cộng đồng để vươn lên thoát
nghèo.
- Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công, giữ vững phong
trào đền ơn đáp nghĩa. Đảm bảo mức sống của các đối tượng chính sách ưu đãi người
có công, chăm lo chu đáo đời sống vật chất lẫn tinh thần cho các đối tượng
chính sách.
- Tổ chức khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn xảy ra hoặc những
rủi ro đột xuất khác. Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội để chăm lo,
giúp đỡ những đối tượng yếu thế đủ điều kiện hưởng chính sách bảo trợ xã hội tại
cộng đồng. Đảm bảo thực hiện đúng chế độ, đúng đối tượng, phấn đấu 100% đối tượng
đủ điều kiện được hưởng chính sách trợ cấp hàng tháng.
- Tiếp tục vận động Quỹ đền ơn đáp nghĩa để chăm lo cho các
thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, tạo điều kiện ổn định cuộc sống.
- Thực hiện tốt chương trình chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn, chăm lo chu đáo đời sống vật chất và tinh thần cho trẻ em, nhất là trẻ
em có hoàn cảnh khó khăn.
- Tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về ý thức bảo vệ và chăm
sóc trẻ em. Phát triển hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em, đồng thời xây dựng mô
hình trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng. Chủ động
phòng tránh tai nạn thương tích, nhất là tai nạn đuối nước trong dịp hè.
Kết
luận: Sau khi đúc kết bài học, xét thấy HCM dù đã đi xa nhưng tư tưởng
của Người về xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân vẫn còn nguyên giá trị.
Câu 5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Cần, kiệm, liêm, chính và chí công vô
tư”.
Trong cả cuộc đời và sự nghiệp vì dân, vì nước của chủ
tịch Hồ Chí Minh là tấm gương đạo đức sáng ngời để lớp lớp nhân dân và cán bộ
noi theo. Người viết nhiều tá phẩm nhằm mục đích giáo dục đạo đức cách mạng Cần
– Kiệm – Liêm – Chính, Chí công vô tư cho nhân dân, đặc biệt là đội ngũ mà Người
gọi là “công bộc của nhân dân”, “đầy tớ của dân”. Theo quan niệm của Hồ Chí
Minh:
*Cần:
Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai.
Cần có nghĩa hẹp là từng người, nghĩa rộng là mọi người
“cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu”.
Cần liên quan đến kế hoạch công việc, nghĩa là tính
toán cẩn thận, sắp đặt gọn gàng. Công việc bắt kè to nhỏ, đều có điều làm trước,
điều làm sau. Nếu không có kế hoạch, điều nên làm trước mà để sau, điều nên làm
sau mà đưa làm trước, như thế sẽ tổn hao thì giờ, mất công nhiều mà kết quả ít.
Cần là luôn cố gắng, chăm chỉ, cả năm, cả đời. Nhưng
không quá trớn. Phải biết nuôi dưỡng tin thần và lực lượng của mình.
* Kiệm: là tiết kiệm,
không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi. Cần với Kiệm phải đi đôi với nhau
như hai chân của con người. Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi có việc đáng
làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao
nhiêu của, cũng vui lòng.
* Liêm: là trong sạch, không tham lam. Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng,
tham ăn ngọ, sống yên đều là “bất liêm”. Người cán bộ cậy quyền thế mà đục
khoét dân, ăn của đút, dìm người giỏi để giữ địa vị và danh tiếng của mình đều
là trái với liêm.Chữ Liêm phải đôi với chữ Kiệm, có Kiệm mới có Liêm được, vì
xa xỉ là sinh tham lam. Cán bộ phải thực hành chữ “liêm” trước để làm kiểu mẫu
cho dân, “quan tham thì dân dại”.
*Chính: nghĩa là không tà, nghĩa là
thẳng thắn, đứng đắn.
Đối với mình; không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học
tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của
bản thân mình.
Đối với người; không nịnh hót người trên, không xem
khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà;
không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: Người chính thấy “việc thiện dù nhỏ mấy
cũng làm. Việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh. Việc gì dù lợi cho mình, phải xét nó
có lợi cho nước không? Nếu không có lợi mà có hại cho nước thì quyết không làm”.
Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Nhưng một cây cần
phải có gốc rễ, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải cần, kiệm, liêm,
nhưng còn phải chính mới là người hoàn toàn.
Hồ Chí Minh cho rằng cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức
tính cần có của con người, một lẽ tự nhiên như bốn mùa của trời, bốn phương của
đất. Nó là thước đo của mỗi người, vì “thiếu một đức thì không thành người”.
*Chí công vô tư: là khi làm bất cứ việc gì đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì
mình nên đi sau, “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”,
là long mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào. Thực hành chí công vô
tư là gắn liền với chống và quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân còn
là mối nguy hại cho Đảng và cả dân tộc.
Tự bản thân rèn luyện đạo đức cách mạng thông qua rèn
luyện về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư:
- Chuyên cần trong công tác, không lánh nặng tìm nhẹ.
Tuân thủ mọi sự phân công của tổ chức, của lãnh đạo.
- Trong công việc phải lên kế hoạch rõ ràng cho bản
thân và đơn vị, phân công trách nhiệm từng thành viên và quan tâm theo dõi tiến
trình công việc, qua đó kịp thời khắc phục, sửa chữa hoặc giúp đỡ đồng nghiệp, quản
lý thời gian theo kế hoạch đề ra chặt chẽ.
- Thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, trong công tác
tuân thủ quy định giờ giấc làm việc (7h – 11h, 13h – 17h), không làm việc riêng
hay uống rượu bia trong giờ làm việc và giờ nghỉ trưa giúp tinh thần tỉnh táo
làm việc hiệu quả hơn. Tăng cường sử dụng phương tiện hiện đại trong trao đổi
công việc: sử dụng email hay các phần mềm văn phòng điện tử từng bước xây dựng
cơ quan không giấy. Không sử dụng điện thoại cơ quan cho việc riêng, thực hiện
tốt phương châm “tắt khi không sử dụng”. Trong xa hoa, lãng phí trong cuộc sống.
- Tuyệt đối trung thành với Đảng, nhà nước và nhân
dân; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội mà Bác đã chọn.
- Gương mẫu, đi đầu trong mọi phong trào thi đua của
đơn vị.
- Luôn tu dưỡng bản thân theo tinh thần Nghị quyết TW
4 khóa XI, khóa XII, học tập kinh nghiệm từ đồng nghiệp đi trước, tăng cường học
tập nâng cao trình độ lý luận thông qua việc nghiêm túc học tập nghị quyết;
nâng cao trình độ chuyên môn qua sách, báo và mạng internet.
- Tích cực phê bình và tự phê bình trong đơn vị, tăng
cường phát biểu, đóng góp vào chương trình, kế hoạch của cơ quan đơn vị. Thực
hành nói đi đôi với làm, tuân thủ quy tắc phát ngôn.
- Giúp đỡ những đồng nghiệp khác khi có yêu cầu, hướng
dẫn những đồng nghiệp ý kinh nghiệm trong công việc. Không nịnh hót người trên,
coi khinh người dưới.
- Hiếu thuận với cha mẹ, kính trọng người cao tuổi tại
đơn vị và nơi cư trú; gương mẫu với trẻ nhỏ, đồng nghiệp trẻ.
- Không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, không
giới thiệu người thân vào làm việc trong cơ quan nhà nước mà không qua thi tuyển.
- Tăng cường sự đoàn kết trong cơ quan, đơn vị. Không
bè phái, cục bộ trong công tác cán bộ.
Tóm lại, trong giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên
thì Cần, Kiệm, Liêm, Chính, chí công vô tư là những phẩm chất
được Người nói đến nhiều nhất. Bằng lời nói cũng như hành động, Người không chỉ
luận giải sâu sắc về “tứ đức” của người cách mạng mà còn là biểu hiện ngời sáng
của những phẩm chất cao quý đó. Mỗi cán bộ, đảng viên cần tu dưỡng đạo đức cách
mạng mà Bác đã dạy thông qua những công việc cụ thể, thường xuyên, mà đặc biệt
là thực hiện tốt cuộc vận động “học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh”.
CÂU 6: TƯ TƯỞNG HCM HIỂU VÀ
ĐÁNH GIÁ CÁN BỘ
Hiểuvà
đánh giá cán bộ nhằm làm tốt công tác cán bộ. Theo HCM:Cán bộ là gốc của công việc, do đó ''phải biết rõ cán bộ” và ''hiểu
biết cán bộ'', để có kế hoạch bồi dưỡng, huấn luyện, sử dụng phù hợp. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hiểu và đánh giá cán bộ thể
hiện ở những nội dung chính sau:
- Biết cán bộ trước hết phải biết mình: “ Đã không tự biết
mình mà khó mà biết người, vì vậy muốn biết đúng sự phải trái ở người thì biết
đúng sự phải trái ở mình. Nếu không biết sự phải trái ở mình thì không thể nhận
biết người cán bộ tốt hay xấu”.
- Hiểu và đánh giá đúng cán bộ phải khách quan khoa học:
+
Cán bộ là con người, vì vậy người cán bộ luôn chịu sự tác động của hoàn cảnh
lịch sử, xã hội nên khi đánh giá cán bộ.
+
Hồ Chí Minh luôn đặt cán bộ trong mối quan hệ toàn diện, nhiều chiều, phát
triển và không định kiến ''một người cán bộ khi trước có sai lầm, không phải sẽ
sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm nhưng chắc gì sau này không
bị sai lầm?”
+
Khi xem xét đánh giá thì quá khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không
phải luôn luôn giống nhau... lúc cách mạng lên cao thì hăng hái, lúc cách mạng
gặp khó khăn thì đâm ra hoang mang'' .
Cách
xem xét này tránh sự lầm lẫn giữa cán bộ tốt và cán bộ xấu, tránh được người cơ
hội, bằng cách này cách khác chui vào hàng ngũ cũa Đảng.
- Nhận xét cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một
lúc, một việc mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ.
- Tránh những
chứng bệnh lúc dùng cán bộ: tự cao tự đại; ưa người ta nịnh mình; do lòng yêu ghét của
mình mà đối với người; đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất
cả mọi người khác nhau. Muốn biết rõ cán bộ, muốn đối đãi một cách đúng đắn các
hạng người, trước hết phải sửa chữa những khuyết điểm của mình. Mình càng ít
khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng.
- Hiểu biết cán bộ một cách toàn
diện giúp ta phân biệt được cán bộ làm được việc và cán bộ tốt.
- Việc xem xét, đánh giá cán bộ
phải làm thường xuyên.
Liênhệ
Dựa
vào từng nội dung trên để liên hệ vào thựctiễn
Phần
liên hệ dưới chỉ tham khảo, cần liên hệ sát đơn vị/ địa phương mình.
Ưu điểm :
Đánh
giá đúng cán bộ để Đảng có kế hoạch
huấn luyện cán bộvì ''cán bộ là tiền vốn của Đảng'', ''công việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém'', “Đạo đức cách mạng do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố”.
Những hạn chế của cán bộ
khi đánh giá :
+
Tự cao tự đại
+
Ưa nịnh
+
Lòng yêu ghét của mình với người
+
Đem 1 cái khuôn khổ nhất định ,chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau.
Theo
HCM nếu mắc 1 trong 4 bệnh đó thì cũng như mắc đã mang kính có màu.
Người
cán bộ phải tự sửa chữa khuyết điểm của mình, càng ít khuyết điểm thì cách xem
xét cán bộ càng đúng.
Hiểu
cán bộ một cách toàn diện giúp ta phân biệt được cán bộ làm được việc và cán bộ
tốt.
Người
cán bộ, tuy họ làm được việc nhưng không
phải là cán bộtốt :
+
Hay khoe công việc,
+
Hay A dua
+
Tìm việc nhỏ mà làm,
+
Trước mặt theo mệnh lệnh, sau lưng trái mệnh lệnh,
+
Hay công kích người khác,
+
Hay tự nâng bốc mình,
Người
cán bộ tốt, dù có kém 1 chút mà:
+
Cứ cắm đầu vào việc,
+
Không khoe khoang,
+
Ăn nói ngay thẳng,
+
Không che giấu khuyết điểm,
+
Không ham việc dễ tránh việc khó, bao giờ cũng kiên quyết theo mệnh lệnh
Đảng,dù hoàn cảnh thế nào lòng không đổi.
Thực tế tại mỗi đơn vị cơ
sở học tập theo tư tưởng cách dùng cán bộ từ Bác chúng ta cần biết và thực hiện
đúng nhận thức, trách nhiệm của cán bộ Đảng viên:
+
Phải xác định đúng yêu cầu của công việc cho cán bộ đúng năng lực
+
Khi bố trí, sử dụng phải tránh sự thiên vị cá nhân. Nếu bố trí đúng sẽ phát huy
mặt mạnh của cán bộ, thúc đẩy được phong trào và còn hạn chế được mặt yếu, mặt
dở của họ.
+
Học tập 5 vấn đề Bác căn dặn mà người cán bộ lãnh đạo phải thực hiện khi dùng người:
+
Mình phải độ lượng, vị tha thì mới có thể đối với cán bộ một cách chí công -vô
tư, không có thành kiến, khiến cán bộ không bị bỏ rơi;
+
Phải có tinh thần rộng rãi, mới có thể gần gũi những người mình không ưa;
+
Phải có tính chịu khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp
cho họ tiến bộ;
+
Phải sáng suốt mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán bộ tốt;
+
Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần gũi mình.
Đồng
thời, Hồ Chí Minh nhắc nhở phải mạnh dạn cất nhắc cán bộ và thường xuyên luân
chuyển cán bộ, chống bệnh ích kỷ, địa phương, kéo bè, chia rẽ phái này phái kia
''phải kết thành một khối không phân biệt, không kèn cựa và giúp đỡ nhau thì
công việc mới chạy”. Trong quá trình sử dụng cán bộ phải thường xuyên đánh giá
để kịp thời uốn nắn, sửa chữa khuyết điểm cho cán bộ và bố trí lại cán bộ khi
cần thiết.
Kết luận:
Trong
cuộc đời làm cách mạng, Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta di sản quý báu đó là
khoa học và nghệ thuật về đánh giá và sử dụng cán bộ.
Hiểu
và đánh giá cán bộtheo lời Bác dạy: “Công việc thành hay bại đều từ cán bộ mà
ra''.
Không có nhận xét nào