Câu hỏi thảo luận - phần tư tưởng Hồ Chí Minh
Bài 8: Nguồn
gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Câu 1: Phân tích khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, làm
rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa các giá trị tốt đẹp của văn hóa
dân tộc và nhân loại?
Bài 9: Tư
tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Câu
1: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc. Làm gì để giữ vững độc lập
dân tộc trong giai đoạn hiện nay?
Câu
2: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. Làm rõ quan điểm trong
giai đoạn hiện nay, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vẫn là con đường
duy nhất đúng đắn?
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội bao gồm:
- Chủ nghĩa xã hội là một chế độ nhân dân làm chủ. Nhà nước phải phát huy quvền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo đức, trong đó người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng; các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi.
- Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Về mục tiêu: Hồ Chí Minh khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm cả chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và xây đựng con người.
Về động lực: Người chỉ rõ, quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động, nòng cốt là công – nông – trí thức. Trong thực hiện, phải kết hợp giữa cá nhân (sức mạnh cá thể) với xã hội (sức mạnh cộng đồng); coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất. Phải quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội. Cần kết hợp nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nội lực là quyết định nhất, ngoại lực là rất quan trọng.
Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định: cần căn cứ vào đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước để xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Người viết: “tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản), … Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản)...”
Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó bao trùm lớn nhất là đặc điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, khi nói về độ dài của thời kỳ quá độ, Người chỉ rõ: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”
Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước; phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Về phương châm xây dựng chủ nghĩa xã hội: Hồ Chí Minh cho rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình phổ biến, có tính quy luật trên thế giới. Nhưng việc xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội phải xuất phát từ điều kiện cụ thể, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân. Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng từng bước một, từ thấp đến cao, không chủ quan, nôn nóng. Người chỉ rõ: “Ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ hai bàn tay trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài”, “phải làm dần dần”, “không thể một sớm, một chiều”, “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại”. Tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh về bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là phải qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài, tùy theo hoàn cảnh”, nhưng “chớ ham làm mau, ham rầm rộ... Đi bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới dần dần”.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm chính. Kết hợp xây dựng và bảo vệ trong phạm vi một quốc gia (tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau ở hai miền Nam - Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước). Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, đặc biệt là quyết tâm (chỉ tiêu 1, biện pháp 10, quyết tâm 20) để thực hiện thắng lợi kế hoạch đã đề ra.
Theo Hồ Chí Minh, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là đem của dân, tài dân, sức dân làm lợi cho dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền là tập hợp lực lượng, đề ra đường lối, chính sách nhằm huy động và khai thác các nguồn lực trong dân để phát triển đất nước vì lợi ích của nhân dân. Người luôn luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài, phải suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội bao gồm:
- Chủ nghĩa xã hội là một chế độ nhân dân làm chủ. Nhà nước phải phát huy quvền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo đức, trong đó người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng; các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi.
- Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Về mục tiêu: Hồ Chí Minh khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm cả chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và xây đựng con người.
Về động lực: Người chỉ rõ, quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động, nòng cốt là công – nông – trí thức. Trong thực hiện, phải kết hợp giữa cá nhân (sức mạnh cá thể) với xã hội (sức mạnh cộng đồng); coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất. Phải quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội. Cần kết hợp nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nội lực là quyết định nhất, ngoại lực là rất quan trọng.
Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định: cần căn cứ vào đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước để xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Người viết: “tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản), … Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản)...”
Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó bao trùm lớn nhất là đặc điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, khi nói về độ dài của thời kỳ quá độ, Người chỉ rõ: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”
Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước; phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Về phương châm xây dựng chủ nghĩa xã hội: Hồ Chí Minh cho rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình phổ biến, có tính quy luật trên thế giới. Nhưng việc xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội phải xuất phát từ điều kiện cụ thể, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân. Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thận trọng từng bước một, từ thấp đến cao, không chủ quan, nôn nóng. Người chỉ rõ: “Ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ hai bàn tay trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài”, “phải làm dần dần”, “không thể một sớm, một chiều”, “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại”. Tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh về bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là phải qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài, tùy theo hoàn cảnh”, nhưng “chớ ham làm mau, ham rầm rộ... Đi bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới dần dần”.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm chính. Kết hợp xây dựng và bảo vệ trong phạm vi một quốc gia (tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau ở hai miền Nam - Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước). Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, đặc biệt là quyết tâm (chỉ tiêu 1, biện pháp 10, quyết tâm 20) để thực hiện thắng lợi kế hoạch đã đề ra.
Theo Hồ Chí Minh, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là đem của dân, tài dân, sức dân làm lợi cho dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền là tập hợp lực lượng, đề ra đường lối, chính sách nhằm huy động và khai thác các nguồn lực trong dân để phát triển đất nước vì lợi ích của nhân dân. Người luôn luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài, phải suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Câu 3: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Liên hệ việc vận dụng mối quan hệ trên trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay?
- Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được rải ra thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách. Kết luận này được Hồ Chí Minh rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế và những mâu thuẫn khách quan tồn tại của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến. Lịch sử phát triển loài người chứng tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến. Với dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Tính chất tạo tiền đề của cách mạng dân tộc dân chủ được thể hiện: - Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do DCS VN lãnh đạo, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất và thực hiện đoàn kết toàn dân trong mặt trận, giành chính quyền và xây dựng một nhà nước cách mạng thật sự của dân, do dân và vì dân. - Về kinh tế: bước đầu hình thành đường lối kinh tế, xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã hội chủ nghĩa, từng bước cải thiện đời sống nhân dân. - Về văn hoá, xã hội, đời sống tinh thần: xây dựng nền văn hóa mới, nền văn hóa cách mạng và giải quyết những vấn đề xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa Mác Lê nin. Đường lối xây dựng và phát triển văn hóa xã hội này được tiếp nối và phát triển trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tóm lại, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. - Chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu của độc lập dân tộc Về lý luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn của một quá trình cách mạng. Lôgíc lịch sử khách quan cho thấy: thực hiện mục tiêu trước mắt là điều kiện tiên quyết để đi tới mục tiêu cuối cùng và chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng thì mục tiêu trước mắt mới củng cố vững chắc một cách hoàn toàn, triệt để. Giữa hai giai đoạn cách mạng không có bức tường ngăn cách, cách mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Do những đặc trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng cố những thành quả đã giành được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho độc lập và phát triển dân tộc. Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang một nội dung sâu sắc, triệt để: độc lập tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ củng cố những giá trị nêu trên, mà còn làm phong phú thêm về mặt nội dung, xác lập các điều kiện để hiện thực hoá các nội dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính. Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây dựng tiềm lực phát triển của dân tộc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Với các thiết chế đó và nền tảng tinh thần riêng có, chủ nghĩa xã hội có khả năng vận động liên tục, tự bảo vệ vững chắc các thành quả cách mạng của nhân dân. Trên phạm vi quốc tế, chủ nghĩa xã hội lớn mạnh sẽ có sức hấp dẫn thu hút các dân tộc, đặc biệt các dân tộc chậm phát triển đi theo con đường chủ nghĩa xã hội; mặt khác chủ nghĩa xã hội sẽ là bệ đỡ của hoà bình thế giới, hạn chế và ngăn chặn các cuộc chiến tranh đế quốc, chiến tranh xâm lược, xoá bỏ tình trạng dân tộc này đi áp bức dân tộc khác. Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội càng phát triển, càng đạt đến độ chín muồi thì các tiềm lực, nhất là tiềm lực vật chất kỹ thuật của dân tộc càng mạnh, đất nước càng có điều kiện củng cố độc lập của mình, tăng cường khả năng phòng thủ. Không có một chế độ xã hội nào có thể đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc bằng chủ nghĩa xã hội. Trong toàn bộ cấu trúc nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội thể hiện khả năng tự bảo vệ và biết cách bảo vệ. Hồ Chí Minh khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là người chủ duy nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã hội trước đó. Chế độ dân chủ là chế độ do nhân dân làm chủ, dân chủ là vấn đề thuộc bản chất của nhà nước ta. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được phát huy trên tất cả các lĩnh vực, phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được hoàn thiện, nâng cao trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao dân trí. Đây là điều kiện cơ bản và quyết định vận mệnh của dân tộc, tạo ra sức đề kháng trên phạm vi xã hội, loại trừ và có khả năng chống trả bất kỳ một hành động nào đe dọa độc lập, tự do của dân tộc. Thực hiện được một xã hội như vậy thì độc lập dân tộc mới thực sự vững chắc, sự nghiệp giải phóng dân tộc mới thắng lợi một cách hoàn toàn và triệt để. * Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội xuất hiện từ năm 1920, khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, và nó được thể hiện rõ nét từ năm 1930. Sự thể hiện tư tưởng của Người về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội có thể phân thành 3 thời kỳ chủ yếu. + Thời kỳ 1930 - 1945 Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh thời kỳ này thể hiện rõ trong những Văn kiện do Hồ Chí Minh soạn thảo được Hội nghị hợp nhất thông qua. Chánh cương vắn tắt của Đảng chỉ rõ Đảng chủ trương "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội xã hội cộng sản". Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam được thực hiện bằng con đường cách mạng vô sản: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Theo tư tưởng Hồ Chí Minh điều đó có ý nghĩa là: Đối tượng của cuộc đấu tranh là thực dân đế quốc và bọn tay sai chống lại độc lập dân tộc. Ở trong nước lực lượng cách mạng bao gồm công nông là gốc và tất cả những ai có lòng yêu nước, thương nòi. Về lực lượng cách mạng ngoài nước trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự ủng hộ của Quốc tế Cộng sản, Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô viết, giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính quốc, các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là sự lãnh đạo của Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin. + Thời kỳ 1945 - 1954 Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ này được thể hiện ở những chủ trương, đường lối chiến lược do Hồ Chí Minh khởi xướng "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", "kháng chiến đi đôi với kiến quốc", "kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến". Kháng chiến tức là bảo vệ nền độc lập dân tộc, chống sự xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp theo phương châm trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi. Kiến quốc theo Hồ Chí Minh là xây dựng, củng cố Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, xây dựng đời sống mới, xây dựng những cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội. + Thời kỳ 1954 - 1969 Ở thời kỳ này độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện qua chủ trương: một Đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh. Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời. Theo chỉ dẫn của Người, nhân dân ta đã đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Với chiến dịch lịch sử mang tên Hồ Chí Minh, mục tiêu của thời kỳ này được hoàn thành vào ngày 30-4-1975. * Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi, xuyên suốt, là tư tưởng chính trị đặc sắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong tư tưởng Hồ Chí Minh và ngày càng được hoàn thiện qua quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là mục tiêu của dân tộc Việt Nam, là con đường mà nhân dân ta đã lựa chọn, đó là nguồn sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Thứ nhất, trong suốt quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng phải được giữ vững, củng cố và tăng cường. Xuất phát từ quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ khó khăn hơn đánh đổ đế quốc, phong kiến, Hồ Chí Minh khẳng định trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết. Thứ hai, khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng phải được củng cố và mở rộng. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân cần nêu cao trách nhiệm trong việc làm cho "rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết trái và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai 'trường xuân bất lão'". Thứ ba, sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới được giữ vững và phát triển. Để làm được việc đó, ngay từ 1947, Hồ Chí Minh đã nêu cao chủ trương: "Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai". Ba nhân tố trên luôn được giữ vững và tăng cường, tác động qua lại, liên quan chặt chẽ với nhau là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi". Như vậy, ĐLDT gắn liền với CNXH là con đường duy nhất đúng đắn mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. ĐLDT và CNXH vừa là mục tiêu cơ bản của cách mạng, vừa là lợi ích căn bản của quốc gia và là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta. Do đó, trong quá trình thực hiện, chúng ta cần quán triệt sâu sắc quan điểm: lấy phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa, xã hội là nền tảng tinh thần của xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Bên cạnh đó, việc kiên định mục tiêu ĐLDT gắn liền với CNXH đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên nắm vững và thực hiện có hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ XHCN; coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh và đối ngoại; kiến tạo và giữ vững môi trường hòa bình để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Trong thời đại toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế cần phát huy tinh thần độc lập, tự chủ kết hợp tiếp thu sáng tạo những thành tựu mới trên các lĩnh vực của thời đại với sự vận động của cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối đúng, bảo đảm vừa kiên định nguyên tắc chiến lược, vừa linh hoạt, sáng tạo trong những giải pháp tổ chức thực hiện. Chúng ta phải vững tin vào con đường Bác Hồ đã lựa chọn, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đọan cách mạng hiện nay, tiếp tục quá trình đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa, vì dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh./ |
Bài 10: TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
Câu
hỏi: Vì sao phải thực hiện đại đoàn kết theo
tư tưởng Hồ Chí Minh? Phân tích những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc. Liên hệ thực tiễn địa phương nơi đồng chí công
tác. Trong điều kiện hiện nay, liên hệ sự vận dụng và phát triển tư tưởng đại
đoàn kết Hồ Chí Minh của Đảng ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam?
Trả
lời:
Vì sao phải thực hiện đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ
Chí Minh?
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã khái quát luận điểm có tính chân lý về vai trò của khối đại đoàn kết,
đó là: Đoàn kết làm ra sức mạnh; “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”;
“Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”...
Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói: “Đoàn kết
của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài... Ai có tài, có đức, có
sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
Trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân để giải quyết
hài hòa mối quan hệ giai cấp - dân tộc. Để tập hợp lực lượng, không được phép
bỏ sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng đó có lòng trung thành và sẵn sàng
phục vụ Tổ quốc, không là Việt gian, không phản bội lại quyền lợi của dân chúng
là được.
Để xây đựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc.
Để thực hành đoàn kết rộng rãi, cần có niềm
tin vào nhân dân, với đại đa số là công nhân, nông đân. Trong bài Nói chuyện tại
Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt toàn quốc, tháng 1-1955, Người chỉ rõ:
“Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số
nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó
là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã
có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”.
Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con
người, trân trọng “phần thiện”, dù nhỏ nhất ở mỗi con người để lôi kéo, tập
hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Người viết: “Trong mấy triệu người cũng có
người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta.
Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc, cháu Hồng
thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm
đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn
kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang”. “Bất kỳ ai mà thật thà tán
thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây
chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”.
Phân tích những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc
Đối với Hồ Chí Minh, nhân dân là phạm trù
cao quý nhất, một phạm trù chính trị chủ đạo trong học thuyết cách mạng của
Người. “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh
bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Đó là một minh chứng điển hình về niềm
tin vào sức mạnh của nhân dân. Người khẳng định, dân khí mạnh thì binh lính
nào, súng ống nào cũng không địch nổi.
Người từng nói với cán bộ: “Nếu lãnh đạo
khéo thì việc khó khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm được”. Đó là sự
tổng kết thực tiễn cách mạng rất sâu sắc: phải không ngừng học dân. “Nhân dân
ta rất cần cù, thông minh và khéo léo. Trong sản xuất và sinh hoạt, họ có rất
nhiều kinh nghiệm quý báu”, do vậy cán bộ ta “cần tham gia tổng kết những kinh
nghiệm quý báu ấy”.
Ngày 10-1-1946, tại cuộc họp đầu tiên của
Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh đã nói: “Chúng ta đã hy sinh
phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi... Chúng ta tranh được tự
do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm
gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc
đủ”.
Là công bộc, là đày tớ của dân, thì Đảng,
Chính phủ và mỗi cán bộ phải chăm lo cho đời sống của nhân dân, không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Người nêu rõ mục tiêu của
Nhà nước là:
1. Làm cho dân có ăn.
2.Làm cho dân có mặc.
3.Làm cho dân có chỗ ở.
4.Làm cho dân có học hành.
* Liên hệ: (tự nghiên cứu)
Bài 11: TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
Câu 1:
Phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân,
do dân, vì dân? Liên hệ việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước của dân, do dân,
vì dân ở địa phương đồng chí?
Để có một Nhà nước vì dân, Hồ Chủ tịch đã
dành nhiều thời gian, công sức, trí tuệ hình thành tư tưởng xây dựng Nhà nước
kiểu mới, đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, để có một
Nhà nước vì dân thì trước hết Nhà nước đó phải của dân và do dân:
- Trong tư tưởng HCM, nhà nước dân chủ
nhân dân là nhà nước phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho dân. Mọi hoạt động
của chính quyền phải nhằm mục tiêu mang lại quyền lợi cho nhân dân và lấy con
người là mục tiêu phấn đấu lâu dài.
- Nhà nước vì dân là Nhà nước chăm lo mọi mặt
đời sống của nhân dân, trước hết là chăm lo các nhu cầu thiết yếu nhất như: Làm
cho dân có ăn, làm cho dân có mặc; làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học
hành, làm cho dân có điều kiện khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe.
-
Nhà nước lo cho dân là không làm thay dân mà là hướng dẫn dân, giúp đỡ dân để
dân tự thực hiện chăm lo đời sống cho mình, bằng chính sức dân.
-
Bên cạnh việc đem lại lợi ích cho dân, chăm lo mọi mặt đời sống nhân dân, nhà
nước phải biết kết hợp điều chỉnh các loại lợi ích khác nhau giữa các giai cấp,
tầng lớp xã hội, các bộ phận dân cư để luôn được mọi người dân ủng hộ, xây
dựng, làm cho ai ai cũng thấy nhà nước là người đại diện cho lợi ích chính đáng
của họ.
- Để thực hiện nhà nước vì dân, Hồ Chí
Minh rất quan tâm nhấn mạnh phải xây dựng nhà nước thực sự liêm khiết, trong
sạch, tránh quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi.
- Bản chất dân chủ của Nhà nước VN theo TT
HCM được ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản VN xác định rõ: “Nhà
nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền
dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám
sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của
công dân; giữ nghiêm kỷ cương XH, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của
Tổ quốc và của nhân dân”.
- Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của
nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng.
Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước đều phải phản ánh
lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách
nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
* Liên hệ: (tự nghiên cứu)
Câu
2:Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền gồm những nội dung gì? Liên hệ
việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay?
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền là sự kế thừa truyền thống văn hóa và những kinh nghiệm xây dựng, quản lý
nhà nước của ông cha ta, là kết quả của sự trải nghiệm, nghiên cứu, khảo sát
nhiều cuộc cách mạng, nhiều nhà nước điển hình như Mỹ, Pháp, Liên Xô..., đồng thời,
sự thấm nhuần và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà
nước kiểu mới vào điều kiện nước ta. Mặc dù Hồ Chí Minh không dùng khái niệm
nhà nước pháp quyền, nhưng tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã được thể hiện
không chỉ trong các bài viết, bài phát biểu của Người về tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, mà còn trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng vẻ vang
của Hồ Chí Minh với tư cách là người sáng lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, người trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ
thống pháp luật của nước Việt Nam mới, phấn đấu để Nhà nước ta thực sự trở
thành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước pháp quyền được thể hiện trên những quan điểm cơ bản sau:
Một là, nhà
nước pháp quyền phải là nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước. Nhà nước là công cụ phục vụ nhân dân Hồ
Chí Minh xác định bản chất dân chủ của Nhà nước ta: “Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ
xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân
tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” . Trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới, nhà nước pháp quyền, nhân dân là chủ
thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ quyền lực nhà nước đều
bắt nguồn từ nhân dân. Điều 1 Hiến pháp 1946 do Người làm Trưởng ban soạn thảo
đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền binh
trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Không phân biệt nòi giống, gái
trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” . Bộ máy nhà nước là do nhân dân lựa
chọn, bầu ra và ủy quyền nhằm thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Vì
vậy, khác với chế độ phong kiến Vua là chủ, nay là chế độ dân chủ, nhà nước của
dân thì dân là chủ, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là các ông
quan cách mạng, mà là công bộc của nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng ta hiểu
rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc
của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như
trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật” . Người dân được hưởng mọi
quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm, đồng thời có
nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
Trong khi khẳng định
vai trò chủ thể của nhân dân đối với Nhà nước, Hồ Chí Minh cũng luôn trăn trở
một điều có ý nghĩa quyết định là: “Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân
chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm” . Người chỉ rõ, Nhà
nước phải tìm cách hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ
của người dân và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước phải hết lòng phục vụ nhân
dân với tinh thần cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, “Việc gì lợi cho dân,
ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh” . Để bảo đảm
tính chính đáng của chính quyền khi tiếp nhận sự ủy quyền của nhân dân, làm cho
Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của nhân dân, ngay từ những ngày đầu giành được
độc lập, trong những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước, Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm đến tổ chức cuộc Tổng tuyển cử để nhân dân trực tiếp bầu ra các đại biểu
xứng đáng thay mặt mình gánh vác việc nước. Bởi vì theo Người: “Tổng tuyển cử
là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để
gánh vác công việc nước nhà... Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng; tức là
dân chủ, đoàn kết” . Những việc quan trọng Nhà nước phải đưa ra để lấy ý kiến
nhân dân. Điều thứ 32 Hiến pháp 1946 quy định: “Những việc quan hệ đến vận mệnh
quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết”. Thực chất đây là cách “trưng cầu ý
dân”, một hình thức dân chủ trực tiếp của nhà nước pháp quyền hiện đại đã được
Hồ Chí Minh nhận thức và đề ra khá sớm ở nước ta.
Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, một nhà nước của dân, do dân không chỉ ở chỗ nhà nước đó do dân lập ra
thông qua bầu cử dân chủ, phải xin ý kiến nhân dân những công việc hệ trọng, mà
còn phải chịu sự kiểm tra, giám sát, định đoạt của nhân dân. Nhân dân có quyền
phê bình, xây dựng, giúp đỡ Nhà nước. Quyết định gì mà dân chúng cho là không
hợp thì cũng phải sửa chữa. Phải dựa vào ý kiến của nhân dân mà sửa chữa cán bộ
và tổ chức của Nhà nước. Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là
chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân.
Nhân dân có quyền đôn
đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích
phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính
phủ và làm đúng chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm tròn phận sự mà
nhân dân đã giao phó cho” . “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc
hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Nhân dân có quyền bãi
miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ
ra không xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân. Tất cả các cơ quan Nhà nước phải
dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự
kiểm soát của nhân dân” . Người còn viết: “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có
quyền đuổi Chính phủ” . Hồ Chí Minh quan niệm trong nhà nước pháp quyền do dân
và vì dân, nhân dân là nguồn gốc sức mạnh, là nguồn trí tuệ, sáng kiến vô tận
giúp Nhà nước hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình. Người viết: “Kinh nghiệm
trong nước và các nước chứng tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng, việc
to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có thì việc gì làm cũng không
xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy
đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”, “Không
có lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy cũng làm không xong...” .
Vì vậy, Nhà nước phải
biết tôn trọng, lắng nghe và học hỏi dân, gần dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện
vọng, ý chí của dân, tìm cách khơi nguồn, bồi dưỡng và nâng cao sức dân. Mặt
khác, Nhà nước được thành lập không phải là để làm thay nhân dân, mà là để phục
vụ nhân dân, thực hiện vai trò người cầm lái, người tổ chức để nhân dân bằng
trí tuệ và sức mạnh vốn có giải quyết các vấn đề của chính mình. Nói về mối
quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “dân như nước mình như
cá”; phải “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân... Chính phủ chỉ giúp
kế hoạch, cổ động”. “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng.
Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với
nhân dân phải đoàn kết thành một khối” .
Hai là, nhà nước pháp quyền
phải là một nhà nước tôn trọng pháp luật, được tổ chức và hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật Qua thực tiễn tiếp xúc với nền văn minh Âu - Mỹ và
tham khảo kinh nghiệm tổ chức, hoạt động của Nhà nước trong quản lý xã hội, Hồ
Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò quan trọng của pháp luật trong quản lý,
điều hành xã hội. Năm 1919, trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội
nghị Véc-xây, Hồ Chí Minh đã đòi thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý ở Đông
Dương, phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng các đạo
luật. Bản Yêu sách đã được Hồ Chí Minh chuyển thành “Việt Nam yêu cầu ca”,
trong đó đặt vấn đề phải có Hiến pháp ban hành, nêu cao vai trò quản lý nhà
nước bằng luật pháp theo tinh thần “trăm điều phải có thần linh pháp quyền”,
phản ánh tư tưởng cốt lõi của Người về nhà nước dân chủ mới - nhà nước tôn
trọng pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật.
Theo tinh thần “thượng
tôn luật pháp”, Nhà nước phải được tổ chức và hoạt động một cách hợp Hiến và
hợp pháp, chỉ một ngày sau khi giành được độc lập, đọc Tuyên ngôn khai sinh ra
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh đề ra với Chính phủ một trong
sáu nhiệm vụ cấp bách là “chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị
Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu
phiếu” . Và chỉ trong một thời gian ngắn Hồ Chí Minh đã tổ chức thành công cuộc
Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội, khẩn trương xây dựng và thông qua Hiến pháp
1946, đặt nền móng cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Trên cương
vị là Chủ tịch nước (từ năm 1945 đến năm 1969), Hồ Chí Minh vừa là nhà lập
pháp, đồng thời là nhà hành pháp có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và
lập pháp ở nước ta, đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến pháp 1946 và Hiến
pháp 1959, đã ký công bố 16 đạo luật, 613 Sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật,
trong đó có 243 Sắc lệnh quy định về tổ chức nhà nước, qua đó hình thành một
thể chế bộ máy nhà nước có nhiều nhân tố cơ bản của một nhà nước pháp quyền.
Trong quá trình chỉ đạo
xây dựng Hiến pháp và pháp luật, tổ chức và vận hành Nhà nước, Hồ Chí Minh luôn
nhắc nhở, Nhà nước ta là Nhà nước của dân, pháp luật của ta là pháp luật dân
chủ, bảo vệ quyền lợi của nhân dân, nhưng phải nghiêm minh và phát huy hiệu lực
thực tế. Người chỉ rõ: “Tăng cường không ngừng chính quyền nhân dân. Nghiêm
chỉnh thực hiện dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch. Triệt để chấp
hành mọi chế độ và pháp luật của Nhà nước” ; “Pháp luật phải thẳng tay trừng
trị những kẻ bất liêm, bất kể kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì” . Hồ Chí
Minh luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công
việc của Chính phủ, đồng thời, nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành, trước hết là
cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp
luật. Trong thư gửi Hội nghị tư pháp toàn quốc, Người viết: “Các bạn là những
người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao cái gương
“Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”, cho nhân dân noi theo” .
Để tiến tới một nhà
nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật,
biết quản lý nhà nước, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo
đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tận tâm, tận lực suốt đời phục vụ
nhân dân. Người đã ký Sắc lệnh số 197 thành lập Khoa Pháp lý học tại Trường Đại
học Việt Nam, ký Sắc lệnh số 76/SL ngày 20-5-1950 ban hành Quy chế công chức,
chú trọng chế độ thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính, khởi
xướng việc xây dựng hệ tiêu chuẩn cho đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng
chính quy, hiện đại, dân chủ, công bằng, công khai. Không chỉ quan tâm đến việc
xây dựng pháp luật và đội ngũ cán bộ công chức nhà nước ngang tầm yêu cầu nhiệm
vụ, Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm đến việc đưa pháp luật vào đời sống, tạo
cơ chế để pháp luật được thi hành nghiêm minh. Người rất coi trọng việc giáo
dục pháp luật cho nhân dân, góp phần nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm
chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khích nhân
dân tham gia vào các công việc của Nhà nước.
Đối với các cán bộ và
cơ quan nhà nước, Người đòi hỏi không những phải làm tốt công tác tuyên truyền,
phổ biến rộng rãi và kỹ lưỡng Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân, mà còn
phải đặc biệt “gương mẫu trong việc thi hành Hiến pháp và các luật lệ” .
Ba là, nhà
nước pháp quyền kiểu mới, của dân, do dân, vì dân phải là Nhà nước trong sạch,
vững mạnh, hiệu quả Với tư cách là người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn trăn trở tìm cách làm thế nào để Nhà nước ta trở thành một nhà nước
pháp quyền kiểu mới, trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, khắc phục được những căn
bệnh cố hữu của các nhà nước kiểu cũ. Trong rất nhiều giải pháp đã thực hiện, có
hai nội dung cơ bản được Người đặc biệt quan tâm, đó là:
- Tăng cường pháp luật
đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, để xây
dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả phải kết hợp chặt chẽ giữa “đức
trị” và “pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và “chống”, không được coi nhẹ mặt nào.
Xây là ra sức giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho nhân dân,
trước hết là cán bộ, công chức, đảng viên, những người có chức, có quyền, đi
đôi với việc chống chủ nghĩa cá nhân, dùng pháp luật nghiêm trị những kẻ vi
phạm pháp luật và thoái hóa đạo đức, làm hại cho dân, cho nước.
Để làm tròn vai trò là
“đày tớ của nhân dân”, các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở phải thực
sự gần dân, biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, làm việc gì cũng
phải bàn bạc kỹ và học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, thực sự yêu dân, kính dân,
tin cậy và trọng dân, ăn ở công bằng và thực sự cần, kiệm, liêm chính, chí công
vô tư. Đi đôi với giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh cũng rất kiên quyết với những
hành vi vi phạm pháp luật và trừng trị nghiêm khắc những kẻ phạm tội, dù người
đó ở cương vị nào. Ngày 27-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ấn định
hình phạt tội đưa và nhận hối lộ. Ngày 26-01-1946, Người ký “Quốc lệnh” khép
tội tham ô, trộm cắp của công vào tội tử hình. Trong trả lời chất vấn của Quốc
hội vào năm 1946, Người nói: “Chính phủ hết sức làm gương, nếu làm gương không
xong thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ hối lộ, đã trừng trị, đang trừng trị
và sẽ trừng trị cho kỳ hết”. Hồ Chủ tịch đã bác đơn xin ân xá giảm án tử hình
của nhiều kẻ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, dù đó là cán bộ cao cấp của Đảng,
Nhà nước. Trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình với cương vị là
Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh luôn thể hiện là một con người gương mẫu, sáng suốt,
thống nhất hài hòa giữa lý trí và tình cảm, bao dung, nhân ái, nhưng vẫn giữ
nghiêm kỷ cương phép nước. Người không bao che, dung túng cho những hành vi sai
lầm, khuyết điểm, vi phạm pháp luật của bất cứ ai, nhưng đồng thời vẫn dùng sức
mạnh, uy tín của mình để cảm hóa những người có lỗi lầm, kéo họ về phía cách
mạng, giáo dục những người mắc khuyết điểm để họ tránh vi phạm pháp luật.
- Luôn đề phòng và chủ
động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước, kiên quyết chống ba
thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh,
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước phụ thuộc vào tính nghiêm minh của
việc thi hành pháp luật và sự trong sạch, gương mẫu về đạo đức của những người
cầm quyền. Vì vậy, phải luôn nêu cao cảnh giác với những biểu hiện tha hóa,
biến chất của đội ngũ cán bộ, công chức, giữ cho Nhà nước luôn trong sạch, vững
mạnh. Chỉ một tháng sau khi lập nước, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Ủy ban nhân
dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ sáu căn bệnh cần đề phòng là: trái phép,
cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người nhắc nhở: “Chúng ta không
sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai
không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm
tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không
tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi
ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình,
chính trực” vào lòng. Vũ khí để phòng ngừa, khắc phục những sai lầm trên, theo
Hồ Chí Minh, chính là đẩy mạnh cuộc đấu tranh phê bình và tự phê bình, phát huy
vai trò gương mẫu, tự giác đề phòng và sửa chữa sai lầm trong nội bộ tổ chức,
đồng thời tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với các cơ
quan nhà nước. Người viết: “Từ ngày thành lập Chính phủ, trong nhân viên còn có
nhiều khuyết điểm. Có người làm quan cách mạng, chợ đỏ, chợ đen, khinh dân, mưu
vinh thân, phì gia... Xin đồng bào hãy phê bình, giúp đỡ giám sát công việc của
Chính phủ” . Ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra ba thứ “giặc nội
xâm”, “giặc trong lòng”, những căn bệnh nguy hiểm tiềm ẩn trong bộ máy nhà nước
mà chúng ta phải luôn đề phòng và kiên quyết chống, nếu không sẽ dẫn đến nguy
cơ suy thoái, đổ vỡ không lường hết được. Người nói: “Tham ô, lãng phí và bệnh
quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến...
Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại
đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính... Tội lỗi ấy cũng nặng như
tội Việt gian, mật thám” . Người chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa đánh thù
trong và diệt giặc ngoài: “Chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng cần
kíp như việc đánh giặc trên mặt trận... Nếu chiến sĩ và nhân dân ta ra sức
chống ngoại xâm và quên chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ
của mình” . Đồng thời, Người không quên nhấn mạnh, đây là một cuộc đấu tranh
rất gay go, phức tạp, đòi hỏi phải có quyết tâm cao: “Việc đấu tranh với kẻ
địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc đấu tranh với kẻ địch
ở trong người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót... vì
vậy, phải có quyết tâm đấu tranh mới được” .
Bốn là, Nhà
nước ta do đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công
nhân với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
“Tính chất Nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai
cấp của chính quyền. Chính quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai? Điều đó
quyết định toàn bộ nội dung của Hiến pháp... Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ
nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh
đạo” . Bản chất giai cấp công nhân còn thể hiện ở tính định hướng đưa đất nước
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội “bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế
quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật
tiên tiến” . Nhà nước đó do Đảng lãnh đạo, và Đảng ta trở thành đảng cầm quyền.
Trong Di chúc gửi lại đồng bào, đồng chí, Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng
cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thực sự cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Người thường nhắc nhở các tổ chức đảng và đảng viên: Đảng ta là đảng cầm quyền
chứ không phải đảng trị, mọi cán bộ, đảng viên phải biết tôn trọng Nhà nước,
gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đi xa, nhưng những tư tưởng của Người về xây dựng nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng và tiếp sức
cho quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện, bền
vững của đất nước trong thời kỳ mới.
* Liên hệ: (tự nghiên cứu)
Câu 3:
Trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy Nhà nước, đội ngũ cán bộ,
công chức; ý nghĩa đối với cải cách nền hành chính hiện nay?
Trước hết, nói về quan điểm của Hồ Chí
Minh về xây dựng bộ máy nhà nước.
Nói đến
bộ máy nói chung và bộ máy nhà nước nói riêng là đề cập tới hệ thống, gồm nhiều
bộ phận liên quan, gắn bó và ràng buộc lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Bộ phận này là điều kiện của bộ phận kia và ngược lại. Tuy nhiên, mỗi bộ phận
lại có chức năng, vị trí riêng, có tính độc lập tương đối trong toàn bộ hệ
thống, cả bộ máy phải đạt được những tiêu chí chung và có mục đích chung. Bộ
máy nhà nước theo quan điểm Hồ Chí Minh phải bảo đảm hiện đại, dân chủ, hiệu
lực, phù hợp với tình hình, đặc điểm từng giai đoạn lịch sử. Quyền lực của bộ
máy nhà nước thuộc về nhân dân và nhân dân sử dụng quyền lực thông qua Quốc hội
và Hội đồng nhân dân. Bộ máy như vậy là thể hiện bản chất dân chủ của nhà nước
kiểu mới: mạnh mẽ. sáng suốt, hoạt động vì lợi ích của nhân dân Quyền lực của
bộ máy nhà nước thì không chia sẻ theo kiểu “tam quyền phân lập”, mà tập trung,
thống nhất. Nhưng để bộ máy hoạt động có hiệu quả thì có sự phân công thực hiện
các chức năng cụ thể. Bộ máy đó gồm:
Quốc
hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước có quyền lập pháp, biểu quyết
ngân sách và giải quyết những vấn đề chung trên phạm vi toàn quốc theo chức
năng của mình. Quốc hội chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài.
Quốc hội bầu Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, biểu quyết danh sách Thủ tướng
và các bộ trưởng.
Chính
phủ là cơ quan hành pháp cao nhất của Nhà nước, hoạt động trên cơ sở Hiến pháp
và pháp luật. Chính phủ là cơ quan thần kinh điều chỉnh mọi hoạt động quản lý
của các cơ quan nhà nước.
Bộ máy
tư pháp gồm tòa án viện kiểm sát hoạt động độc lập theo pháp luật và lương tâm
không phụ thuộc với bất cứ một quyền lực nào. Thẩm phán được Chính phủ bổ
nhiệm. Khi xét xử có sự tham gia của phụ (hội) thẩm nhân dân. Quyền bào chữa,
biện hộ của các bị cáo được bảo đảm. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bộ máy tư pháp thể
hiện tính dân chủ. hiện đại đáp ứng nguyện vọng của nhân dân về một nền công lý
sáng suốt.
Nền
hành chính tập trung theo nguyên tắc dân chủ. Để nền hành chính hoạt động có
hiệu quả, Hồ Chí Minh quan tâm tới giải quyết mối quan hệ giữa chính quyền các
cấp. Theo đó, nhà nước trung ương thực hiện sự thống nhất tập trung công việc
có tính chất quốc gia, còn chính quyền địa phương giải quyết những công việc
theo chức năng, quyền hạn của mình. Hội đồng nhân dân do nhân dân bầu ra, chịu
trách nhiệm trước nhân dân địa phương, quyết định những vấn đề trong phạm vi
của mình nhưng phải theo đúng Hiến pháp và pháp luật.
Tùy theo hoàn cảnh lịch sử để vận dụng
sáng tạo, nhưng vẫn bảo đảm quy định của Hiến pháp và pháp luật, nhằm đem lại
hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước trong mọi tình huống.
Thứ
hai, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Nói đến
bộ máy nói riêng và mọi hoạt động của nhà nước nói chung là nói tới con người,
nói tới đội ngũ cán bộ, công chức. Bởi vì. mọi việc đều do con người làm ra cán
bộ tốt thì bộ máy hoạt động tốt, cán bộ dở thì bộ máy hoạt động kém, thậm chí
không chạy. Vì vậy, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm tới đội ngũ cán bộ, công chức
cả hai mặt xây và chống.
Trước
hết. Hồ Chí Minh chú trọng việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức có
trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là
phải có đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, một tiêu
chuẩn cơ bản của người cầm cân nảy mực cho công lý.
Trong
điều kiện vừa thoát khỏi chế độ của thực dân, phong kiến, chúng ta chưa có kinh
nghiệm trong quản lý đất nước. Vì vậy, cán bộ nhà nước phải biết quản lý nhà
nước. Hồ Chí Minh vừa sử dụng viên chức, quan lại dưới chế độ cũ vừa tích cực
tìm người tài đức vì kiến thiết cần có nhân tài.
Cần lưu
ý thêm khi bàn về công chức, Hồ Chí Minh coi “cán bộ là nguồn vốn của Nhà
nước”, “cái gốc của mọi công việc’-. Vì vậy. trong Quy chế công chức, Người xác
định rõ vị trí và nhiệm vụ của công chức. Vì công chức giữ một vị trí và nhiệm
vụ nhất định trong bộ máy nhà nước, nên phải đem hết tất cả sức lực và tâm trí
để làm việc cho nhân dân. Họ cần có một địa vị xứng đáng với tài năng của mình,
nằm trong thang lương nhất định và phải có quy chế khung thi tuyến. Như vậy, có
thể thấy Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính chất chuyên nghiệp của công chức theo chế
độ chức nghiệp.
Nói đến
cán bộ công chức, cùng với xây những phẩm chất tốt cần chống lại những thói hư
tật xấu. Hồ Chí Minh là lãnh tụ nhìn xa, trông rộng. Ngay sau khi có chính
quyền cách mạng. Người đã chỉ ra những căn bệnh trong bộ máy nhà nước và trong
cả hệ thông chính trị. Từ đó Người trăn trở với cách để phòng và khắc phục
những thói tật của cán bộ, công chửc. Đó là những thứ “giặc nội xâm”, “giặc
trong lòng" mà rõ nhất là tham ô, lãng phí, quan liêu, thiếu tinh thần
trách nhiệm, óc bè phái, đặc quyền đặc lợi, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo... Theo
Hồ Chí Minh, tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là bạn đồng minh của thực dân
phong kiến . Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta phá từ trong phá ra . Tội lỗi
ấy nặng như Việt gian, mật thám. Vì vậy, chống “giặc trong lòng” cũng cần kíp
như việc đánh giặc trên mặt, trận. Đáng chú ý bệnh quan liêu. Những người mắc
bệnh quan liêu là trọng hình thức, thích khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo
trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn... thành thử có mắt mà không
thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật
mà không nắm vững... Thế,là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn
tham ô, lãng phí. Vì vậy. muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí thì trước mắt phải
tẩy sạch bệnh quan liêu. Đây chính là tinh thần của Lênin khi cho rằng tệ quan
liêu sẽ làm tiêu vong chúng ta.
Tóm lại xây dựng bộ máy và cán bộ công
chức liên quan với nhau. Bộ máy trong sạch, vững mạnh là nhờ đội ngũ cán bộ
công chức trong sạch, vững mạnh. Đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch thì bộ
máy trong sạch.
* Liên hệ: (tự nghiên cứu)
Bài 12: Tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ
Câu hỏi 1: Quan điểm Hồ Chí
Minh về cán bộ gồm những nội dung gì? Liên hệ thực tiễn bản thân và địa phương,
đơn vị đồng chí?
Trả lời:
Quan điểm Hồ Chí Minh về cán bộ
Dưới ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm
nhận thức được vị trí, vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng.
Với mục đích đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, trong sự khát khao
giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công
tác đào tạo cán bộ. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt trong
việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI của Đảng, nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tư tưởng
Hồ Chí Minh về cán bộ được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
1. Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc
Khi bàn về vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn đặt cán bộ trong sự tổng hòa các mối quan hệ. Trước hết, Người coi
"cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, cây thì phải có gốc, không có gốc thì cây héo, sông thì phải có
nguồn, không có nguồn thì sông cạn. Vì vậy trong mọi việc mà không có cán bộ
thì không thể hoàn thành.
Cán bộ còn được hiểu "là cái dây chuyền của bộ máy". Trong cỗ máy
công nghiệp, dây chuyền liên quan đến nhiều bộ phận, nếu dây chuyền không tốt,
không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Sự chuyển động
của xã hội được coi như một "cỗ máy" khổng lồ. Trong "cỗ
máy" đó, cán bộ là dây chuyền, "cầu nối" giữa Đảng, Chính phủ
với nhân dân. Đây là một "dây chuyền" đặc biệt. Bởi vì, cán bộ phải
đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, giải thích
cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân chúng báo
cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Như vậy, nếu
cán bộ dở thì một mặt chính sách không thể thực hiện được, mặt khác việc hoạch
định, xây dựng chính sách mới sẽ sai lầm hoặc không phù hợp.
Cần hiểu rằng, cán bộ cũng là người, ai cũng có tính tốt và tính xấu. Song
đã là một người cán bộ cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính tốt và
sửa bỏ những tính xấu. Vì "tính xấu của một người thường chỉ có hại cho
người đó; còn tính xấu của một đảng viên, một cán bộ sẽ có hại đến Đảng, có hại
đến nhân dân".
Trong mối quan hệ giữa cán bộ và nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm
dân như nước, cán bộ như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ dân hết. Người chỉ rõ
"cán bộ không có đội viên, lãnh tụ không có quần chúng thì không làm gì
được". Từ đó, Người khẳng định nước lấy dân làm gốc, "cán bộ quyết
định mọi việc". Sự "quyết định" ở đây là cán bộ phải đi trước,
làm gương về tư tưởng, đạo đức, thái độ, lề lối làm việc. Muốn phát huy được
đầy đủ tính sáng tạo của hàng chục triệu người, thì cán bộ phải đi trước, tự
cải tạo mình, tự nâng cao mình. Cán bộ phải có lập trường giai cấp vô sản vững
chắc, giác ngộ về chủ nghĩa xã hội cao; phải rửa sạch ảnh hưởng tư tưởng của
giai cấp bóc lột, rửa sạch chủ nghĩa cá nhân, rèn luyện tinh thần và ý thức tập
thể.
2. Người cán bộ phải có đạo đức
cách mạng
a. Đạo đức cách mạng là gốc của người cán bộ.
Đạo đức là sự tổng hòa những nguyên tắc, quy định, chuẩn mực nhằm hướng con
người tới cái chân, thiện, mỹ, chống lại cái giả, cái ác, cái sai trong mỗi
thời đại lịch sử, phù hợp với tiến bộ xã hội để con người tự giác điều khiển
hành vi của mình trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với
xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao đạo đức truyền thống của dân tộc, coi
đó là một sức mạnh tinh thần to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Từ khi
cách mạng có Đảng lãnh đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng chỉ giác ngộ chính
trị chưa đủ, mà còn phải thấm nhuần, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Đây chính là
nhân tố làm cho sức mạnh cách mạng tăng lên bội phần, góp phần vào chiến thắng
kẻ thù ngoại xâm và nghèo nàn, lạc hậu. Bàn về vai trò của đạo đức cách mạng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "… Người cách mạng phải có đạo đức, không có
đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải
phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát mà tự mình
không có đạo đức, không có căn bản, tự mình hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc
gì?".
Đã là cán bộ cách mạng thì phải có đạo đức cách mạng. Giữ được đạo đức cách
mạng mới là người cán bộ chân chính. Bởi vì, mọi việc thành hay bại là do cán
bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không.
Với tinh thần đó, đạo đức cách mạng là nguồn động lực giúp cán bộ vượt qua
mọi khó khăn, cám dỗ, thử thách. Hơn thế nữa, đạo đức cách mạng và chủ nghĩa xã
hội là một cuộc đồng hành. Một khi chưa trừ bỏ được chủ nghĩa cá nhân thì chưa
thể nói tới thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, và chủ nghĩa xã hội chỉ có thể
khẳng định được mình với tư cách là một chế độ xã hội ưu việt khi cùng với sự
phát triển của kinh tế, của lực lượng sản xuất, khoa học - công nghệ, là những
tiến bộ của đời sống tinh thần và giá trị đạo đức, nhân văn phải trở thành nhu
cầu sống cao đẹp của mỗi con người và toàn xã hội.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân là một thứ "vi trùng rất
độc", nó là thứ "bệnh mẹ", do nó mà sinh ra các thứ "bệnh
con", các chứng bệnh nguy hiểm như: bệnh quan liêu, bệnh tham lam, bệnh
kiêu ngạo, bệnh lười biếng, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương…
b. Nội dung đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Thứ nhất là, trung với nước, hiếu với dân.
Từ xưa đến nay ở Việt Nam, trong quan hệ văn hóa - đạo đức thì mối quan hệ
giữa dân và nước, giữa nhân dân với Tổ quốc là mối quan hệ lớn nhất, có vai trò
chi phối mọi quan hệ khác. Do đó, trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo
đức hàng đầu.
Người khuyên cán bộ, đảng viên phải gắn bó với dân, thương dân, lấy trí tuệ
ở dân, học hỏi dân. Người xác định, cán bộ các cấp đều là công bộc của dân,
nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, cán bộ phải cùng nhau bàn tính kỹ
càng, cùng nhau chia sẻ công việc rõ rệt, cùng nhau đi giải thích cho dân hiểu,
cổ động dân, giúp dân đặt kế hoạch, tổ chức nhân công, sắp xếp việc làm, khuyến
khích, theo dõi giúp đỡ dân giải quyết những điều khó khăn. Cán bộ phải đi sát
với dân, thiết thực bày vẽ cho dân: "Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức
làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh". Đó là một tổng kết mang
tính chân lý về mối quan hệ giữa cán bộ với dân.
Trung với nước, hiếu với dân là hạt nhân cơ bản của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh, là tiêu chuẩn quan trọng nhất đối với cán bộ, đảng viên.
Thứ hai là, thương yêu con người, tình thương đồng bào, đồng chí.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, tình thương yêu con người là một trong những
phẩm chất đạo đức cao đẹp. Người đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải trở thành những
tấm gương có sức cảm hóa, có tính gương mẫu trong mọi hoạt động và phải luôn
luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người, nhất là tình yêu thương đồng
bào, đồng chí, luôn bao dung, độ lượng, kể cả đối với những người trót lầm
đường lạc lối nhằm đánh thức lương tri, đánh thức phần thiện trong con người
của họ.
Thứ ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Đó là nét đặc trưng của đạo đức theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là
phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng. Việc tu dưỡng, rèn luyện phải được
thực hiện hàng ngày, hàng giờ, trong công tác, sinh hoạt gia đình, xã hội, ở
mọi không gian, thời gian và lấy chính bản thân mình làm đối tượng. Phẩm chất
này là một biểu hiện cụ thể của phẩm chất "trung với nước, hiếu với
dân". Bởi vì "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" sẽ tạo khả
năng giữ vững độc lập, xây dựng đất nước.
Như vậy, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là cái cần để làm việc, làm
người, làm cán bộ… phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân
loại. Rèn luyện đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ giúp người
cán bộ có nhiều phẩm chất tốt đẹp khác, có thể vững vàng trước mọi thử thách.
Thứ tư là, tinh thần trách nhiệm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở, bất kỳ ai, ở địa vị nào, làm công tác
gì, gặp hoàn cảnh nào, đều phải có tinh thần trách nhiệm. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, người có tinh thần trách nhiệm là khi Đảng, Chính phủ hoặc cấp trên giao
cho việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, thì cũng đem cả tinh thần và sức
lực làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công; luôn nắm
vững chính sách, đi đúng đường lối quần chúng và làm tròn nhiệm vụ. Trái lại,
làm một cách cẩu thả, làm cho xong chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi,
gặp sao làm vậy… là không có tinh thần trách nhiệm; còn bệnh quan liêu, mệnh
lệnh, chủ quan, hấp tấp, tự tư, tự lợi là trái hẳn với tinh thần trách nhiệm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, bất cứ nấu bếp, quét nhà hay làm chủ tịch đều
phải lao động cả. Bởi lao động là vẻ vang. Do đó, tình yêu lao động và lao động
sáng tạo là một trong những chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng. Điều đó đòi
hỏi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong lao động, đem hết nhiệt tình, trí
tuệ làm cho lao động của mình, của tập thể đạt được năng suất và hiệu quả ngày
càng cao trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần làm cho công cuộc
kháng chiến, kiến quốc mau đến thành công.
3. Người cán bộ phải tích cực học
tập
Để lao động đạt hiệu quả cao đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải có tinh thần
học tập không ngừng. Vì vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh "mỗi cán bộ, đảng
viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế. Phải
chữa bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông", phải tự nguyện, tự
giác, xem công tác học tập cũng là nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng phải hoàn
thành cho được, do đó mà tích cực chủ động hoàn thành kế hoạch học tập, nêu cao
tinh thần chịu khó, cố gắng không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào trong việc
học tập.
Một thái độ học tập đúng là phải nêu cao tác phong học tập, suy nghĩ và tự
do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào sâu, hiểu kỹ, không tin một cách mù
quáng từng câu một trong sách, có vấn đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và
thảo luận cho vỡ lẽ. Đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi "vì sao?",
đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không, có thật là đúng lý
không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi
chiều.
Từ quan niệm "cán bộ là cái gốc của mọi công việc", Chủ tịch Hồ
Chí Minh xác định "huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng". Đào
tạo bao gồm "nuôi dạy", huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ. Đó là công việc
mà Đảng phải bỏ nhiều công sức tiến hành "chu đáo, công phu". Đảng
phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng, huấn luyện, học tập không phải là một việc đơn giản,
muốn làm được thì phải hiểu cho rõ. Trước hết, phải xác định đúng mục đích huấn
luyện, học tập; điều này phải được quán triệt ở cả chủ thể huấn luyện và đối
tượng huấn luyện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ đi học là để "làm việc, làm người,
làm cán bộ". Tuy ba mục đích ấy là thống nhất, quan hệ chặt chẽ với nhau
nhưng trong thực tế dễ bị đảo lộn thứ tự, nhận thức và hành động sai mục đích,
nhất là đối với người học. Do đó, đối với người học, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn
mạnh học để sửa chữa tư tưởng, học để tu dưỡng đạo đức cách mạng, học để tin
tưởng, học để hành. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải đào tạo một đội ngũ cán
bộ có gan phụ trách, có gan làm việc, ham làm việc. Có thế Đảng mới thành công.
Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo, không dám phụ trách, như thế là một
việc thất bại của Đảng. Đào tạo thế là phí công, phí của, vô ích. Chủ tịch Hồ
Chí Minh nghiêm khắc phê phán cách đào tạo hình thức, chạy theo số lượng mà
không thiết thực, chu đáo, chất lượng kém.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự
học". Người học phải biết tự giác học tập, xác định mục đích, động cơ học
tập. Học tập lý luận "theo nguyên tắc: kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng
nhau". Cách học tập là: "lấy tự học làm cốt". Trong mục
"học ở đâu", Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "học ở trường, học ở
sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất
lớn".
4. Người cán bộ phải có tác phong
dân chủ.
Trong những bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh ta thấy rõ yêu cầu
đối với cán bộ, đảng viên như khiêm tốn, giản dị, cách làm việc, cách tổ chức,
nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo. Bên cạnh đó, Người còn đề cập
đến cách lãnh đạo, cách công tác, cách dân chủ, tác phong độc lập suy
nghĩ.
Khả năng tổ chức thực hiện đường lối của người cán bộ được quyết định bởi
cách làm việc theo quan điểm quần chúng, chứ không phải làm việc theo cách quan
liêu. Đây là bài học lớn từ tấm gương của Lênin như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
ra: Với phương pháp khéo léo của mình, Lênin đã lay động được quần chúng nhân
dân chưa giác ngộ và lạc hậu nhất trong các nước thuộc địa. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng, thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết
mọi khó khăn. Cán bộ, đảng viên phải xung phong gương mẫu, bàn bạc một cách dân
chủ với mọi người, khuyên mọi người phát biểu ý kiến.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý trong phong cách làm việc, phong cách công tác,
phong cách lãnh đạo của cán bộ, phải chống bệnh hẹp hòi, nghĩa là phải tuyệt
đối nhằm vào lợi ích của toàn quốc, lợi ích của toàn Đảng. Nguyên nhân của bệnh
có nhiều, nhưng chủ yếu là do ham danh vọng và địa vị, nên khi ở cương vị phụ
trách thì lôi người này, kéo người khác, ưa ai thì kéo vào, không ưa thì đẩy
ra. Hậu quả của bệnh hẹp hòi là gây chia rẽ, mất đoàn kết giữa cán bộ cấp trên
phái đến và cán bộ địa phương, cán bộ cũ và cán bộ mới, giữa bộ phận và toàn
cục, cán bộ cơ quan này và cán bộ cơ quan khác, địa phương này và địa phương
khác… Cán bộ mắc bệnh hẹp hòi đẻ ra nhiều thứ bệnh khác như không biết dùng
nhân tài, việc gì cũng ôm hết. Ôm lấy hết thì cố nhiên làm không nổi. Thậm chí
dìm người giỏi.
5. Người cán bộ phải có phong
cách nói đi đôi với làm
Nói đi đôi với làm là một truyền thống, một chuẩn mực hành vi đạo đức của
dân tộc Việt Nam. Nó xa lạ với lối nói suông, nói nhiều làm ít, thậm chí nói
một đường, làm một nẻo. Nói đi đôi với làm cũng là một nét đẹp truyền thống đạo
đức phương Đông như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Người phương Đông giàu tình
cảm, đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn
tuyên truyền. Đặc biệt, chủ nghĩa Mác - Lênin với một nguyên tắc cơ bản là lý
luận gắn liền với thực tiễn đã tạo ra một bước chuyển biến về chất trong nhận
thức và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người dạy: muốn đánh giá đúng con
người không phải chỉ căn cứ vào người đó nói và viết như thế nào, mà quan trọng
là phải xem người đó làm như thế nào. Người yêu cầu cán bộ phải thống nhất giữa
nói và làm, tư tưởng phải chuyển hóa thành hành động cụ thể, hoàn thành nhiệm
vụ, thực hiện lý tưởng cao cả của Đảng và dân tộc.
Kiểm tra là công đoạn cuối cùng của quá trình nói và làm. Chính sách đúng
là nguồn gốc của thắng lợi. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đã có chính sách
đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do cách thức tổ chức
công việc, lựa chọn cán bộ và do kiểm tra. Nếu ba việc đó không được thực hiện
tốt, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích. Đó là tư tưởng cơ bản, nhất quán, chỉ
đạo quá trình xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ của Đảng trong cuộc đời hoạt
động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
* Liên hệ: (tự nghiên
cứu)
Câu hỏi 2: Công tác cán bộ theo
quan điểm Hồ Chí Minh bao gồm những nội dung gì? Liên hệ việc thực hiện công
tác cán bộ ở địa phương đồng chí?
Trả lời:
Quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
Là người sáng lập,
lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, hơn ai hết Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rất rõ vị
trí, vai trò của cán bộ. Người chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt
hoặc kém”. “Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ
tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ
vốn.Vì vậy, ngay từ những ngày đầu cách mạng, Hồ Chí
Minh đã quan tâm đặc biệt đến việc đào tạo, đánh giá và sử dụng cán bộ, giao
cho họ những trọng trách và giúp đỡ họ hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giao phó.
Để có được những cán bộ ưu tú một lòng vì Đảng, vì dân, theo Hồ Chí Minh trong
sử dụng cán bộ phải chú ý các quan điểm sau:
Thứ nhất, phải hiểu
và đánh giá đúng cán bộ
Đây là yêu cầu xuất
phát để tiến hành các mặt khác của công tác cán bộ. Nếu không đánh giá đúng cán
bộ và tình hình công tác cán bộ thì không thể đề bạt, sử dụng cán bộ một cách
đúng đắn được. Hồ Chí Minh cho rằng, cứ mỗi lần xem xét lại cán bộ, một mặt sẽ
tìm thấy những nhân tài mới, mặt khác thì những người yếu kém sẽ bị lòi
ra. Đánh giá đúng cán bộ không chỉ nhằm phát hiện cái hay của họ để khuyến
khích, phát huy, mà còn nhằm thấy cái dở của họ để tìm cách giúp đỡ, khắc phục.
Người nói: “Ở đời, ai cũng có chỗ tốt và chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ
tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu của họ”.
Để đánh giá đúng cán
bộ, Hồ Chí Minh yêu cầu phải có quan điểm biện chứng. Quan điểm biện chứng nhằm
khẳng định mọi sự vật, hiện tượng đều không ngừng biến đổi. Cán bộ cũng như
vậy, “có người khi trước theo cách mạng mà nay phản cách mạng. Có người khi
trước không cách mạng mà nay lại tham gia cách mạng. Thậm chí có người nay đang
theo cách mạng, nhưng sau này có thể phản cách mạng”; “Quá khứ, hiện tại và
tương lai của mọi người không phải luôn giống nhau”. Vì
thế, khi xem xét, đánh giá cán bộ, “quyết không nên chấp nhất” mà phải có cái
nhìn toàn diện. Việc đánh giá cán bộ không thể chỉ căn cứ vào những biểu hiện
bên ngoài của họ, mà phải đi sâu tìm hiểu bản chất của họ; không thể chỉ dựa
vào một việc làm của họ, mà phải tìm hiểu tất cả các công việc mà họ thực hiện;
không thể chỉ xem xét cán bộ trong một thời điểm, mà phải thấy rõ lịch sử của
họ. Có cái nhìn toàn diện như vậy, ta mới có thể đánh giá cán bộ một cách đúng
đắn, khách quan. Hồ Chí Minh nêu lên quan điểm: “Ai mà hay khoe công việc,
hay a dua, tìm việc nhỏ mà làm, trước mặt thì theo mệnh lệnh, sau lưng thì trái
mệnh lệnh, hay công kích người khác, hay tự tâng bốc mình, những người như thế,
tuy họ làm được việc, cũng không phải cán bộ tốt. Ai cứ cắm đầu làm việc, không
ham khoe khoang, ăn nói ngay thẳng, không che giấu khuyết điểm của mình, không
ham việc dễ, tránh việc khó, bao giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh lệnh của
Đảng, vô luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi, những người như
thế, dù công tác kém một chút cũng là cán bộ tốt”.
Như vậy, quan điểm
đánh giá cán bộ của Hồ Chí Minh rất tổng hợp, lịch sử và biện chứng, phải đặt
cán bộ trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Chỉ trên những quan điểm và phương
pháp đánh giá cán bộ như vậy mới khắc phục được những căn bệnh, những khuyết
điểm chủ quan thường mắc trong công tác cán bộ.
Hồ Chí Minh
cũng chỉ rõ có không ít tật bệnh đã xuất hiện khi tiến hành đánh giá cán bộ,
chẳng hạn “Bệnh tự cao tự đại, bệnh ưa người ta nịnh mình, bệnh đem một cái
khuôn khổ chật hẹp, nhất định mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau v.v..”. Đây
đều là những căn bệnh mà để cho người làm công tác cán bộ cũng như mắt đã
mang kính có màu, không bao giờ thấu rõ cái mặt thật của những cái mình trông.
Vì thế, để công tác đánh giá cán bộ được đúng đắn và khách quan, trước hết
những người làm công tác cán bộ khi đánh giá, xem xét cán bộ còn phải “tự
biết mình”, tức là biết được “sự phải trái của mình”. Vì theo Hồ Chí Minh “muốn
biết đúng sự phải trái ở người ta, thì trước phải biết đúng sự phải trái của
mình. Nếu không biết sự phải trái ở mình, thì chắc không thể nhận rõ người cán
bộ tốt hay xấu”. Phải biết, hiểu rõ cán bộ để nhìn thấy
và khơi dậy những điểm tốt, điểm mạnh cũng như nhận ra những điểm yếu của cán
bộ, qua đó đưa ra cách sử dụng cán bộ cho phù hợp với trình độ và khả năng của
họ.
Thứ hai, phải “khéo
dùng cán bộ”, “dùng người đúng chỗ, đúng việc”
Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: “dùng người như dùng gỗ, người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều
tùy chỗ mà dùng được”. Trong công tác cán bộ phải “khéo
dùng” (hay còn gọi là nghệ thuật dùng người), là phải dùng đúng người, đúng
việc, đúng năng lực, sở trường, làm cho cán bộ vui vẻ, thoải mái, yên tâm công
tác và hăng hái thi đua cống hiến sức mình cho sự nghiệp cách mạng. Biết
tùy tài mà dùng người không những tránh lãng phí người tài, mà còn có tác dụng
tích cực, làm cho người tài ngày càng nhiều thêm. Hồ Chí Minh viết: “Lãnh đạo
khéo, tài nhỏ có thể hóa tài to. Lãnh đạo không khéo, tài to cũng hóa ra tài
nhỏ”. “Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm
việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy. Biết dùng người
như vậy, ta sẽ không lo gì thiếu cán bộ”.
Hồ Chí Minh nhắc nhở:
“Dùng cán bộ không đúng tài năng của họ, cũng là một cơ thất bại”, Người thí
dụ: “Người viết giỏi nhưng nói kém lại dùng vào những việc cần phải nói. Người
nói khéo nhưng viết xoàng lại dùng vào công việc viết lách. Thành thử hai người
đều không có thành tích”.
Đi đôi với việc sử
dụng đúng tài năng của cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người lãnh đạo,
quản lý phải biết trọng dụng nhân tài, nếu không sẽ làm “thui chột” nhân tài.
Người cho rằng phải biết chăm lo phát hiện nhân tài, phải biết đào tạo, bồi
dưỡng nhân tài và phải biết sử dụng nhân tài một cách hợp lý. Việc trọng dụng
nhân tài theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải làm thường xuyên, liên
tục như “người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài,
trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”.
Hồ Chí Minh phê phán
những bệnh sau đây: “1. Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, vì
cho họ tốt hơn người bên ngoài; 2. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình mà chán
ghét những người chính trực; 3. Ham dùng những người tính tình hợp với mình mà
tránh những người tính tình không hợp với mình”.
Hồ Chí Minh đưa ra
quan điểm dùng cán bộ đúng với 5 nội dung: “Phải có độ lượng vĩ đại thì mới có
thể có thái độ và tinh thần chí công vô tư đối với cán bộ, không có thành kiến,
khiến cán bộ không bị bỏ rơi. Phải có tinh thần rộng rãi mới có thể gần gũi với
những người mà mình không ưa. Phải có tính chịu khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ
những cán bộ còn kém, giúp cho họ tiến bộ. Phải sáng suốt mới khỏi bị bọn vu vơ
bao vây mà cách xa cán bộ tốt. Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, cán bộ mới vui
lòng gần gũi mình”.
Thứ ba, trong sử dụng
cán bộ phải chống chủ nghĩa biệt phái, cục bộ, địa phương, hẹp hòi
Hồ Chí Minh hay
nhấn mạnh đến việc chống cánh hẩu, họ hàng, thân quen trong công tác cán bộ nói
chung cũng như trong sử dụng cán bộ nói riêng. Người phê bình một cách nghiêm
khắc việc người dùng cán bộ là hay dùng người bà con, anh em quen biết, ham
dùng những kẻ khéo nịnh mình dẫn đến hiện tượng ô dù, kéo bè kéo cánh, công
thần. Hồ Chí Minh chỉ rõ tác hại của bệnh hẹp hòi, bệnh địa phương cục bộ. Theo
Người, những bệnh chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân,
khuynh hướng tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, v.v.. đều do bệnh hẹp
hòi mà ra. Hồ Chí Minh cho rằng, phải chữa cho “tiệt nọc” bệnh hẹp hòi, khắc
phục kèn cựa, mất đoàn kết giữa cán bộ trên điều về và cán bộ tại chỗ, giữa cán
bộ trẻ và cán bộ già, giữa cán bộ cũ và cán bộ mới…
Trong sử dụng
cán bộ phải kết hợp các loại cán bộ trên tinh thần đoàn kết cùng hướng tới mục
đích chung là hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất; không cục bộ, hẹp hòi.
Trong kết hợp các loại cán bộ phải bảo đảm tính kế thừa và phát triển. Phải kết
hợp giữa cán bộ lớn tuổi và cán bộ trẻ, lớp cán bộ cũ và cán bộ mới, tạo nguồn
cán bộ kế cận để bảo đảm sự chuyển giao công việc, phải bồi dưỡng cán bộ cách
mạng cho đời sau. Theo Hồ Chí Minh: “Số cán bộ cũ có ít, không
đủ cho Đảng dùng. Đồng thời, theo luật tự nhiên, già thì phải yếu, yếu thì phải
chết. Nếu không có cán bộ mới thế vào, thì ai gánh vác công
việc của Đảng”. Hồ Chí Minh phân tích rằng, cán bộ mới
“vì công tác chưa lâu, kinh nghiệm còn ít, có nhiều khuyết điểm.
Nhưng họ lại có những ưu điểm hơn cán bộ cũ: họ nhanh nhẹn hơn,
thường giàu sáng kiến hơn”[16]. Do
đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cán bộ cũ phải hoan nghênh, dạy bảo, dìu dắt, yêu mến
cán bộ mới… Hai bên phải tôn trọng nhau, giúp đỡ nhau, học lẫn nhau, đoàn kết
chặt chẽ với nhau… Cán bộ cũ thường giữ địa vị lãnh đạo. Vì vậy, nếu từ nay,
quan hệ giữa hai hạng cán bộ ấy không ổn thoả, thì cán bộ cũ phải chịu trách
nhiệm nhiều hơn. Như thế mới chữa khỏi bệnh hẹp hòi”.
Hồ Chí Minh phê bình
nghiêm khắc tệ “kéo bè kéo cánh” trong công tác cán bộ. Tệ này phát sinh từ
bệnh bè phái, ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng
cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau; ai không hợp với mình thì
người tốt cũng cho là người xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha,
nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Khuyết điểm này, như Hồ Chí Minh chỉ ra,
nó rất tai hại, nó làm Đảng bớt mất nhân tài và không thực hành được đầy đủ
chính sách của mình, làm hại sự thống nhất, nó làm mất sự thân ái, đoàn kết
đồng chí, gây ra những mối nghi ngờ…
Thứ tư, phải yêu
thương, giúp đỡ cán bộ
Đây là quan điểm thể
hiện tính nhân văn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ. Tính
nhân văn ấy được hình thành từ chính thực tế tiến hành công tác cán bộ trong sự
nghiệp đấu tranh cách mạng. Người chỉ rõ: “Không phải vài ba tháng, hoặc vài ba
năm, mà đào tạo được một người cán bộ tốt. Nhưng cần phải công tác, tranh đấu,
huấn luyện lâu năm mới được. Trái lại, trong lúc tranh đấu, rất dễ mất một người
cán bộ”.
Yêu thương cán
bộ không phải là vỗ về, nuông chiều, phó mặc. Theo Hồ Chí Minh, thương yêu cán
bộ “là giúp họ học tập thêm, tiến bộ thêm. Là giúp họ giải quyết những vấn đề
khó khăn sinh hoạt, ngày thường thì điều kiện dễ chịu, khi đau ốm được chăm
sóc, gia đình họ khỏi khốn quẫn, v.v... Thương yêu cán
bộ còn là luôn luôn chú ý đến công tác của họ. Hễ thấy có khuyết điểm thì giúp
họ sửa chữa ngay. Hễ thấy ưu điểm thì động viên, khuyến khích họ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, thương yêu cán bộ chính là ở thái độ thưởng phạt công minh, có thành tích
thì khen, có khuyết điểm phải phạt,"Người đời ai cũng có khuyết điểm, có
làm việc thì có sai lầm”. Vì vậy, đối với cán bộ mắc
sai lầm, ta quyết không nên nhận rằng họ muốn như thế, mà công kích họ. Trái
lại, khi họ sai lầm thì dùng cách thuyết phục để giúp họ sửa chữa, phải có thái
độ thân thiết, giúp đỡ và động viên họ hăng hái tiến
lên.
Thứ năm, phải có gan
đề bạt và cất nhắc cán bộ
Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, người làm công tác cán bộ phải có gan đề bạt, cất nhắc cán bộ. Có gan tức
là phải mạnh dạn. Sở dĩ Người nói như vậy vì chúng ta thường hay “rụt rè” hoặc
“quá khắt khe” trong việc đề bạt cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, có gan cất nhắc cán
bộ nghĩa là người cán bộ được cất nhắc có thể còn điểm yếu, song phải biết được
khuyết điểm của họ để sau khi cất nhắc tiếp tục giúp đỡ họ tiến bộ. Có gan đề
bạt cất nhắc là không sợ người được đề bạt cất nhắc sẽ vượt mình. Có gan không
có nghĩa là làm nóng vội, làm ẩu, làm liều, càng không vì danh lợi của mình mà
cất nhắc cán bộ. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, vì
tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế, công việc nhất
định chạy”.Như vậy, việc cất nhắc cán bộ là sự
khẳng định, ghi nhận năng lực, sự cống hiến của từng cán bộ, đồng thời động
viên khích lệ những người xung quanh, tạo động lực cho họ phấn đấu vươn lên
trong công tác. Tin tưởng trao việc cho cán bộ, “thả cho họ làm”, “thả cho họ
phụ trách”, không bao biện làm thay. Có như vậy, họ mới phấn khởi, mạnh dạn,
tin vào năng lực của mình, dám làm dám chịu trách nhiệm, vượt qua khó khăn để
vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Trước khi đề bạt, cất
nhắc phải xem xét, đánh giá phẩm chất đạo đức, năng lực công tác và các mối
quan hệ của họ trong quá trình công tác. Trên cơ sở những ưu điểm, năng lực mà
đề bạt, cất nhắc họ một cách khách quan, công tâm, đúng người, đúng việc. Hồ
Chí Minh nhấn mạnh, người sử dụng cán bộ “Nếu vì lòng yêu ghét, vì
thân thích, vì nể nang, nhất định không ai phục, mà lại gây lên mối lôi thôi
trong Đảng. Như thế là có tội với Đảng, có tội với đồng bào”.
Người còn nhắc nhở: “Cất nhắc cán bộ, không nên làm như “giã gạo”. Nghĩa là
trước khi cất nhắc không xem xét kỹ. Khi cất nhắc rồi không giúp đỡ họ. Khi họ
sai lầm thì đẩy họ xuống, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc lên. Một cán bộ bị
nhắc lên, thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời”. Do
vậy, đề bạt, cất nhắc cán bộ phải xem xét hết sức cẩn thận, chính xác, sau khi
cất nhắc còn phải giúp đỡ họ để họ vững tin công tác.
Có thể nói tư tưởng
và quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ, về đánh giá, sử dụng cán bộ là
kết tinh truyền thống dùng người của cha ông ta trong lịch sử, là đỉnh cao của
"nghệ thuật" hay "phương sách" dùng người. Bác đã đi xa
nhưng quan điểm của Người về sử dụng cán bộ đến nay vẫn còn nguyên giá trị,
Đảng ta tiếp tục kế thừa vận dụng sáng tạo trong việc thực hiện công tác cán
bộ. Đặc biệt, Đại hội XI khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công
tác cán bộ. Thực hiện tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu
của công tác cán bộ... sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy
trình đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín
nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu” nhằm phát
huy năng lực, sở trường của người cán bộ, nâng cao hiệu quả công tác, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
* Liên hệ: (tự nghiên cứu)
Không có nhận xét nào